Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10. 121 loại tâm

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 22741)
10. 121 loại tâm

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera
Phạm Kim Khánh dịch

Chương I

(CITTA - SAṄGAHA - VIBHĀGO) 

NHỮNG LOẠI TÂM VƯƠNG KHÁC NHAU

EKAVĪSASATĀNI CITTĀNI -- 121
121 loại tâm

10.

Ittham'ekūna navutippabhedhaṁ pana mānasaṁ
Ekavīsasataṁ v'ātha vibhajanti vicakkhanā.

Katham'ekūna navutividhaṁ cittaṁ ekavīsasataṁ hoti?

1. Vitakka-vicāra-pīti-sukh'ekaggatā-sahitaṁ
Paṭhamajjhāna-Sotāpattimaggacittaṁ,

2. Vicāra-pīti-sukh'ekaggatā-sahitaṁ
Dutiyajjhāna- Sotāpattimaggacittaṁ,

3. Pīti-sukh'ekaggatā-sahitaṁ
Tatiyajjhāna Sotāpatti- maggacittaṁ,

4. Sukh'ekaggatā-sahitaṁ
Catutthajjhāna Sotāpatti- maggacittaṁ,

5. Upekkh'ekaggatā-sahitaṁ
Pañcamajjhāna Sotāpatti maggacittañ c'āti.

Imāni pañca pi Sotāpattimaggacittāni nāma.

Tathā Sakadāgāmimagga, Anāgāmimagga, Arahatta-maggacittañ c'āti samavīsati maggacittāni. Tathā phalacittāni c'āti samacattāḷīsa Lokuttaracittāni bhavantī'ti.

1. Jhānaṅgayogabhedhena-- katv'ekekan tu pañcadhā
Vuccatā'nuttaraṁ cittaṁ -- cattāḷīsavidhanti ca.

2. Yathā ca rūpāvacaraṁ -- gayhatā'nuttaraṁ tathā
Paṭhamādijhānabhede -- āruppañcā'pi pañ
came.

3. Ekādasavidhaṁ tasmā -- paṭhamādikam'īritaṁ
Jhānan ekekaṁ' ante tu -- tevīsatividhaṁ bhave.

4. Sattatiṁsavidhaṁ puññaṁ—dvipaññāsavidhaṁ tathā
Pākam'iccāhu cittāni -- ekavīsasataṁ budhā'ti.

Iti Abhidhammatthasaṅgahe Cittasaṅgahavibhāgo nāma paṭhamo paricchedo.

§10

Những loại tâm khác nhau nầy, tổng số là tám mươi chín, bậc thiện trí phân chia làm một trăm hai mươi mốt.

Làm thế nào tâm, vốn đã được phân tách làm tám mươi chín loại, lại trở thành một trăm hai mươi mốt?

1. Tâm Nhập Lưu Ðạo Sơ Thiền, đồng phát sanh cùng Tầm, Sát, Phỉ, Lạc và Nhất Ðiểm;
2. Tâm Nhập Lưu Ðạo Nhị Thiền, đồng phát sanh cùng Sát, Phỉ, Lạc và Nhất Ðiểm;
3. Tâm Nhập Lưu Ðạo Tam Thiền, đồng phát sanh cùng Phỉ, Lạc, và Nhất Ðiểm;
4. Tâm Nhập Lưu Ðạo Tứ Thiền, đồng phát sanh cùng Lạc và Nhất Ðiểm;
5. Tâm Nhập Lưu Ðạo Ngũ Thiền, đồng phát sanh cùng Xả và Nhất Ðiểm.

Ðó là năm loại tâm Nhập Lưu Ðạo.

Cùng thế ấy, tâm Nhất Lai Ðạo, tâm Bất Lai Ðạo, tâm Vô Sanh Ðạo, tất cả đúng hai mươi loại. Và cũng cùng thế ấy, có hai mươi loại tâm Quả. Như vậy, tất cả có bốn mươi loại tâm Siêu Thế.

Tóm lược:

1. Phân chia mỗi tâm (Siêu Thế) làm năm loại, tùy theo những chi thiền khác nhau, số tâm Siêu Thế được nói là trở thành bốn mươi.

2. Như tâm thuộc Sắc Giới được phân làm Sơ Thiền v.v... tâm Siêu Thế cũng được phân loại cùng thế ấy. Tâm Vô Sắc Giới được bao gồm trong Ngũ Thiền.

3. Vậy, bắt đầu từ Sơ Thiền, tổng số các Thiền được nói, là mười một. Tầng Thiền (Jhāna) cuối cùng (tức Ngũ Thiền) tổng cộng là hai mươi ba.

4. Ba mươi bảy loại tâm Thiện, năm mươi hai loại tâm Quả, bậc thiện trí nói có tất cả một trăm hai mươi mốt loại tâm tất cả.

Ðến đây chấm dứt chương đầu của quyển Vi Diệu Pháp Toát Yếu (Abhidhammattha Saṅgaha) đề cập đến sự phân tách tâm.

Chú Giải:

45. Sự Chứng Ngộ Niết Bàn.

Vị hành giả quyết tâm chứng ngộ Niết Bàn cố gắng thấu đạt thực tướng của sự vật. Với tâm vững vàng an trụ vào một điểm, hành giả thận trọng dò xét tỉ mỉ cái "tự ngã" của chính mình, và khi quan sát chân chánh như vậy, khám phá rằng cái được gọi là "cá tính", "bản ngã", hay cái "ta" của mình chỉ là sự cấu hợp của hai thành phần, danh và sắc. Danh gồm những tâm sở luôn luôn trôi chảy, phát sanh như hậu quả của sự tiếp xúc giữa lục cănlục trần. Sắc là những năng lực và đặc tánh tự biểu hiện trong muôn ngàn hiện tượng, dưới mọi hình thức.

Ðã thành đạt quan kiến chân chánh về bản chất thật sự của chính mình, đã thoát ra khỏi quan niệm sai lầm về một thực thể "danh và sắc đồng nhất", thường còn và không biến đổi, hành giả nỗ lực tìm hiểu nguyên nhân của cái "bản ngã" nầy, và nhận thức rằng mọi sự vật trên thế gian, trong đó có luôn cả chính mình, đều là vật cấu tạo, hữu vi, do những nguyên nhân quá khứ hay hiện tại tạo điều kiện. Vạn pháp đều do duyên sanh. Và sở dĩ có kiếp sống nầy là do vô minh (avijjā), ái dục (taṇhā), thủ (upādāna), tức sự cố chấp luyến ái bám chặt, và nghiệp (kamma) trong quá khứ và vật thực (āhāra) của kiếp sống hiện tại. Vì có năm nguyên nhân trên (bốn quá khứ và một hiện tại) tự ngã nầy mới phát sanh. Những hành động trong quá khứ đã tạo duyên cho hiện tại. Cùng thế ấy hiện tại sẽ tạo điều kiện cho tương lai. Chú tâm suy niệm như thế hành giả vượt lên khỏi mọi hoài nghi về quá khứ, hiện tại, và tương lai (Kankhāvitaraṇavisuddhi, Ðoạn Nghi Tịnh). Tiếp theo, hành giả suy niệm rằng tất cả các vật được cấu tạo (các pháp hữu vi, saṅkhāra.) đều vô thường (Anicca), phải chịu đau khổ (Dukkha), và không có một linh hồn trường tồn bất diệt (Anattā). Hướng tầm mắt về bất luận nơi nào, hành giả chỉ nhìn thấy ba đặc tướng ấy phát lộ rành mạch, rõ ràng, không thể lầm lẫn. Bấy giờ hành giả nhận thức rằng kiếp sống chỉ là một sự trôi chảy, một di động liên tục, không gián đoạn. Dầu ở các cảnh Trời hay trên quả địa cầu, hành giả không tìm được nơi nào có hạnh phúc thật sự, bởi vì mỗi hình thức lạc thú chỉ là bước đầu, mở đường đến đau khổ. Do đó, cái gì vô thường tức nhiên phải chịu đau khổ, và nơi nào đau khổbiến đổi chiếm ưu thế thì không thể có một tự ngã trường tồn vĩnh cửu.

Khi chuyên chú hành thiền như thế ấy, sẽ có một ngày kia, trước sự ngạc nhiên của chính mình, hành giả chứng kiến một ánh hào quang (Obhāsa) phát tủa ra từ thân mình. Lúc ấy hành giả thọ cảm trạng thái thỏa thích, hạnh phúc, và vắng lặng, trước kia chưa từng bao giờ được biết. Hành giả càng củng cố tâm định và càng tinh tấn thêm. Tâm đạo nhiệt thành càng tăng trưởng, tâm niệm toàn hảo và tuệ minh sát càng trở nên sâu sắc một cách lạ thường. Lầm tưởng mức tiến bộ khá cao ấy là Ðạo Quả Thánh, nhất là vì thấy có hào quang, hành giả phát triển tâm ưa thích trạng thái tinh thần ấy. Nhưng sớm nhận thức rằng những hiện tượng khai triển mới mẻ ấy chỉ là trở ngại cho tiến bộ tinh thầnđạo đức, hành giả trau giồi và phát triển trạng thái trong sạch của sự hiểu biết liên quan đến "Con Ðường" và "Không-Phải-Con-Ðường" (Maggāmagga-ñāṇa-dassana- Visudhi, Ðạo, Phi Ðạo Tri Kiến Tịnh). Ðã thấy rõ con đường chân chánh, hành giả gom tâm quán tưởng vào trạng thái phát sanh (Udaya ñāṇa, Tuệ Sanh) và hoại diệt (Vaya ñāṇa, Tuệ Diệt) của tất cả các pháp hữu vi. Trong hai trạng thái, sanh và diệt, sự hoại diệt nổi bậtchiếm ưu thế, được nhận thấy rõ ràng hơn, nên dần dần gây ấn tượng mạnh hơn trong tâm hành giả, bởi vì sự biến đổi được nhận thấy hiển nhiênrõ ràng hơn sự trở thành. Do đó hành giả hướng tâm chú niệm của mình về sự phân tán của sự vật (Bhaṅga- ñāṇa, Tuệ Phân Tán, Diệt) và nhận định rằng cả danh và sắc, hai thành phần cấu tạo nên cá nhân mình luôn luôn ở trong trạng thái đổi thay, trôi chảy, không thể tồn tại giống hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Bấy giờ phát sanh đến hành giả sự hiểu biết rằng tất cả những gì bị phân tán đều là đáng sợ (Bhaya ñāṇa, Tuệ Kinh Hải). Toàn thể thế gian phát hiện trước mắt hành giả như một đống củi đang phừng cháy, một hiểm họa. Kế đó hành giả suy tưởng về tánh chất rách nát, đỗ vỡ, và tạm bợ nhất thời (Ādīnava ñāṇa, Tuệ Thấy Hiểm Nguy) của thế gian đáng kinh sợ nầy, và có cảm giác nhàm chán (Nibbidā ñāṇa, Tuệ Chán Nản), và khởi sanh ý muốn tẩu thoát ra khỏi đó (Muñcitukamyatā ñāṇa, Tuệ Muốn Giải Thoát). Hướng về đối tượng ấy, hành giả chú tâm quán xét trở lại ba đặc tướng (Paṭisankhā ñāṇa, Tuệ Suy Tư), và sau đó phát triển tâm Xả trọn vẹn, hoàn toàn thản nhiên đối với tất cả các pháp hữu vi (Hành) -- không luyến ái cũng không ghét bỏ hay bất toại nguyện, đối với bất luận vật gì trên thế gian (Saṅkhārupekkhā ñāṇa, Tuệ Xả Hành).

Khi đạt đến mức độ tinh thần nầy, hành giả chọn một trong ba đặc tướng -- vô thường, khổ, vô ngã -- đặc tướng nào thích ứng nhất với mình và gia công khai triển tuệ giác theo chiều hướng ấy cho đến ngày vẻ vang tươi sáng, thành tựu mục tiêu cuối cùng -- Ðạo Quả Niết Bàn.

Lúc ấy tiến trình Javana trôi chảy như sau:

1

2

3

4

5

6, 7

*

*

*

*

*

* *

Parikamma

Upacāra

Anuloma

Gotrabhū

Magga

Phala

Trong trường hợp những vị hành giảtuệ Minh Sát sâu sắc, chặp tư tưởng Parikamma (chuẩn bị, hay đề mục sơ khởi) không phát sanh, luồng Javana bắt đầu bằng chặp Upacāra và Phala sẽ phát sanh trong ba chặp liên tiếp.

Chín loại tuệ giác: Udaya, Vaya, Bhaṅga, Bhaya, Ādīnava, Nibbidā, Muñcitukamyatā, Paṭisaṅkhā và Saṅkhārupekkhā ñāṇa -- đuợc gọi chung là Paṭipadā Ñāṇadassana Visuddhi, Ðạo Tri Kiến Tịnh, tức trạng thái trong sạch của sự hiểu biết và sự trông thấy có liên quan đến Con Ðường, hay pháp hành.

Tuệ Minh Sát trong tâm Ðạo Siêu Thế được gọi là Ñāṇadassana Visuddhi, Tri Kiến Tịnh, tức trạng thái trong sạch của sự hiểu biết và sự trông thấy.

Khi chứng ngộ Niết Bàn lần đầu tiên hành giả được gọi là Sotāpanna, Nhập Lưu hay Tu Ðà Huờn, người lần đầu tiên bước vào dòng suối chảy đến Niết Bàn. Vị ấy không còn là phàm nhân (Puthujjana) mà đã là Thánh Nhân (Ariya). Ngài đã cỡi bỏ ba Thằng Thúc (Saṁyojana, dây trói buộc cột chúng sanh vào vòng luân hồi) là Thân Kiến (Sakkāya Diṭṭhi, ảo kiến về tự ngã của mình), Hoài Nghi (Vicikicchā), và Giới Cấm Thủ (Sīlabbata Parāmāsa, tin tưởng vào những nghi thứclễ tế lầm lạc). Vì còn chưa tận diệt được tất cả những Thằng Thúc trói mình vào những kiếp sinh tồn, vị Nhập Lưu còn phải tái sanh trở lại, tối đa là bảy lần. Trong kiếp kế liền sau khi đắc Quả Ngài có thể còn nhớ, cũng có thể không hay biết gì rằng mình đã Nhập Lưu. Tuy nhiên, dầu biết hay không, Ngài vẫn giữ những đặc tánh của một vị Nhập Lưu.

Niềm tin nơi Ðức Phật, Giáo Pháp, và Giáo Hội Tăng Già luôn luôn tiềm tàng bên trong Ngài, không bao giờ còn vi phạm một giới nào trong Ngũ Giới. Ngài không bao giờ còn tái sanh vào khổ cảnh vì đã vững vàng bước vào con đường Giác Ngộ.

Từ đây hành giả, là bậc Thánh Nhân, đã nhoáng thấy Niết Bàn từ xa, càng quyết tâm gia công, tiến bộ nhanh chóng, kiện toàn tuệ giác, thành tựu Ðạo Quả Nhứt Lai (Sakadāgāmi, Tư Ðà Hàm) bằng cách làm giảm suy hai Thằng Thúc: Dục ái (Kāmarāga, tham ái duyên theo Dục Giới). và bất toại nguyện, hay sân hận (Paṭigha).

Trường hợp nầy, và trong trường hợp của hai tầng Thánh trên nữa là Bất LaiVô Sanh cũng vậy, tiến trình Javana vẫn trôi chảy như trên, nhưng chặp tư tưởng Chuyển Tánh (Gotrabhū) được gọi là "Vodāna", có nghĩa "trong sạch", bởi vì đây không phải là chặp tư tưởng chuyển tiếp từ phàm đến Thánh mà là một trường hợp tâm thanh lọc, trở nên trong sạch hơn.

Vị Thánh Nhứt Lai (Sakadāgāmi, Tư Ðà Hàm) chỉ còn tái sanh một lần nữa trên quả địa cầu nếu không chứng đắc Ðạo Quả A La Hán ngay trong kiếp hiện tại. Nên ghi nhớ rằng bậc Thánh Nhân đã thành tựu tầng Thánh thứ nhì chỉ làm giảm suy sức trói buộc rất chặt chẽ của hai Thằng Thúc đã cột trói Ngài từ quá khứ vô tận. Ðôi khi Ngài vẫn còn phải bận rộn với những tư tưởng tham áisân hận, nhưng ở mức độ rất tế nhị.

Chí đến khi thành đạt tầng Thánh thứ ba, Bất Lai (Anāgāmi, A Na Hàm), trạng thái không bao giờ trở lại, hành giả mới tận diệt hai Thằng Thúc ấy. Từ đây Ngài không bao giờ còn tái sanh trở lại vào cảnh người hay những cảnh Trời Dục Giới, vì đã hoàn toàn tận diệt mọi tham ái duyên theo Dục Giới.

Sau khi tịch diệt ở đây Ngài tái sanh vào cảnh Vô Phiên Thiên (Suddhāvāsa, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết, Tịnh Cư), môi trường thích nghi với chư vị Thánh Bất Lai và chư vị A La Hán. Ở cảnh nầy vị Bất Lai sẽ đắc Quả Vô Sanhtiếp tục sống cho đến lúc tuổi thọ chấm dứt.

Những thành công trước kia chưa từng đến với Ngài càng khích lệ thêm vị hành giả, vốn đã nhiệt thành. Hành giả nỗ lực thành tựu bước tiến cùng tột, và tận diệt năm Thằng Thúc còn lại là: Sắc ái (Rūparāga, luyến ái duyên theo cảnh Sắc Giới), Vô Sắc ái (Arūparāga, luyến ái duyên theo cảnh Vô Sắc Giới), Ngã Mạn (Māna), Phóng Dật (Uddhacca), và Vô Minh (Avijjā), đắc Quả Vô Sanh, hay A La Hán, tầng Thánh cuối cùng.

Nên ghi nhận rằng mười Thằng Thúc phải được tận diệt trong bốn giai đoạn.

Chặp tư tưởng Ðạo (Magga) chỉ phát sanh một lần duy nhất. Chặp tư tưởng Quả (Phala) tức khắc kế tiếp theo sau. Trong các loại tâm Siêu Thế, quả của tâm Thiện (Kusala Citta) trổ sanh liền tức khắc, do đó được gọi là Akālika, quả trổ tức khắc. Trong khi ấy quả của các loại tâm Tại Thế (Lokiya Citta) có thể trổ ở kiếp hiện tiền, hay trong kiếp kế liền theo kiếp hiện tiền, hay bất luận lúc nào, dài dài cho đến khi nhập Vô Dư Niết Bàn.

Trong các loại tâm Tại Thế, Nghiệp (Kamma) chiếm phần quan trọng, còn trong các tâm Siêu Thế thì Trí Tuệ (Paññā) là phần nổi bật nhất. Do đó, bốn tâm Thiện Siêu Thế không được xem là Nghiệp.

Tám loại tâm nầy được gọi là Siêu Thế (Lokuttara). Ở đây, "loka" có nghĩa Pañcupādanakkhandha, chấp thủ ngũ uẩn, tức là năm nhóm của sự luyến ái. "Uttara" là cái gì vượt qua khỏi. Vậy, "Lokuttara" là cái gì vượt ra khỏi trạng thái Chấp Thủ Ngũ Uẩn. Ðịnh nghĩa nầy chỉ áp dụng một cách chính xác cho bốn Ðạo. Các Quả được gọi là Lokuttara vì đã vượt ra khỏi thế gian Chấp Thủ Ngũ Uẩn.

46. Bốn Mươi Loại Tâm Siêu Thế

Một vị hành giả đã đắc Sơ Thiền, xuất thiền và suy niệm trở lại về tánh cách vô thường, khổ, và vô ngã của những trạng thái tâm ấy, và cuối cùng chứng ngộ Niết Bàn. Vì lẽ hành giả dựa trên Sơ Thiền làm nền tảng để chứng ngộ Niết Bàn, loại tâm Thiện (Lokuttara Kusala) ấy được gọi là:

"Vitakka-Vicāra-Pīti-Sukh'Ekaggata-sahitaṁ-Paṭhamaj- jhāna Sotāpattimagga-cittaṁ."
Tâm Nhập Lưu Ðạo, Sơ Thiền, đồng phát sanh cùng Tầm, Sát, Phỉ, Lạc, Nhất Ðiểm.

Chặp tư tưởng Quả tức khắc theo liền chặp Ðạo ấy.

Cùng một thế ấy, hành giả dùng bốn tầng Thiền kia làm nền tảng để chứng ngộ Niết Bàn. Mỗi tầng Thánh có năm Ðạo và năm Quả tương ứng với năm chi thiền. Vậy, trong bốn tầng Thánh có bốn mươi loại tâm:
(5 +5) x 4 = 40.

Ðồ biểu 4: Tâm Thiền - 67

Thiền

Sắc Giới
15

Vô Sắc Giới
12

Siêu Thế
40

 

T
5

Q
5

H
5

T
4

Q
4

Q
4

H
20

Q
20

1

1

1

 

 

 

4

4

11

Nhị

1

1

1

 

 

 

4

4

11

Tam

1

1

1

 

 

 

4

4

11

Tứ

1

1

1

 

 

 

4

4

11

Ngũ

1

1

1

4

4

4

4

4

23

Jhānas: Các tầng Thiền, có 67.
T: Tâm Thiện (Kusalacittaṁ).
Q: Tâm Quả (Vipākacittaṁ).
H: Tâm Hành (Kriyācittaṁ) .

Ðồ Biểu 5: Tâm Siêu Thế - 40

 

Sơ Thiền

Nhị Thiền

Tam Thiền

Tứ Thiền

Ngũ Thiền

 

Ðạo

Quả

Ðạo

Quả

Ðạo

Quả

Ðạo

Quả

Ðạo

Quả

 

Nhập Lưu

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

10

Nhứt Lai

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

10

Bất Lai

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

10

A La Hán

1

1

1

1

1

1

1

1

1

1

10

Ðồ Biểu 6: Tâm Bất Thiện - 12

 

Thọ hỷ

Thọ ưu

Thọ xả

tà kiến

không tà kiến

không xúi giục

có xúi giục

Tham

4

 

4

4

4

4

4

Sâm

 

2

 

 

 

1

1

Si

 

 

2

 

 

 

 

Ðồ Biểu 7: Tâm Vô Nhân -18

 

Thọ hỷ

Thọ ưu

Thọ xả

Thọ lạc

Thọ khổ

Quả Bất Thiện

 

 

6

 

1

Quả Thiện

1

 

6

1

 

Hành

1

 

2

 

 

Ðồ Biểu 8: Tâm Ðẹp Dục Giới - 24

 

Thọ hỷ

Thọ xả

tri kiến

không tri kiến

không xúi giục

có xúi giục

Thiện

4

4

4

4

4

4

Quả

4

4

4

4

4

4

Hành

4

4

4

4

4

4

Ðồ Biểu 9: 89 Tâm Vương Phân Hạng Theo Loại

 

Bất Thiện

Thiện

Bất định

Quả

Hành

Dục giới

12

8

23

11

Sắc giới

...

5

5

5

Vô sắc giới

...

4

4

4

Siêu thế

...

4

4

...

Tổng cộng
89 Tâm

12

21

36

20

-ooOoo-

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31365)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26246)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27562)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27951)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26746)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31259)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20299)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22988)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30103)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21617)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20300)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22700)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20799)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30369)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28826)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34772)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44260)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35556)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22581)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21402)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20717)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24793)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37963)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19097)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19366)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21862)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20903)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29546)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35198)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28851)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32632)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26264)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28972)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43186)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34995)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 44002)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37939)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21353)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43069)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49048)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39893)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53825)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36846)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40840)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49761)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47358)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27788)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27056)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27250)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24092)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20874)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34340)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22513)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25151)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25884)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22988)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22496)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21775)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23356)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21202)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant