Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Những Loại Bất Thiện Pháp

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 17595)
1. Những Loại Bất Thiện Pháp

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

Chương VII

SAMUCCAYA-SAṄGAHA-VIBHĀGO
Những phân loại theo Abhidhamma

1. Dvāsattatividhā vuttā vatthudhammā salakkhaṇā
Tesaṁ dāni yathāyogaṁ pavakkhāmi samuccayaṁ.

2. Akusalasaṅgaho, missakasaṅgaho, bodhipakkhiya- saṅgaho, sabbasaṅgaho c'āti samuccayasaṅgaho catubbidho veditabbo.

Kathaṁ?

(i) Akusalasaṅgahe tāva cattāro āsavā: kāmā- savo, bhavāsavo, diṭṭhāsavo, avijjāsavo.

(ii) Cattāro oghā -- kāmogho, bhavogho, diṭṭh- ogho, avijjogho.

(iii) Cattāro yogā — kāmayogo, bhavayogo, diṭṭhi- yogo, avijjāyogo.

(iv) Cattāro ganthā -- abhijjhā kāyagantho, vyā- pādo kāyagantho, sīlabbataparāmāso kāya- gantho, idaṁsaccābhiniveso kāyagantho.

(v) Cattāro upādānā — kāmupādanaṁ, diṭṭhupādā- naṁ, sīlabbatupādānaṁ, attavādupādānaṁ.

(vi) Cha nīvaraṇāni — kāmacchandanīvaraṇaṁ, vyāpādanīvaraṇaṁ, thīnamiddhanīvaraṇaṁ, uddhaccakukkuccannīvaraṇaṁ vicikicchā- nīvaraṇaṁ, avijjānīvaraṇaṁ.

(vii) Sattānusayā — kāmarāgānusayo, bhavarāgānu- sayo, paṭighānusayo, mānānusayo, diṭṭhā- nusayo, vicikicchānusayo, avijjānusayo.

(viii) Dasa saṁyojanāni — kāmarāgasaṁyojanaṁ, rūparāgasaṁyojanaṁ, arūparāgasaṁyojanaṁ, paṭighasaṁyojanaṁ, mānasaṁyojanaṁ, diṭṭhisaṁyojanaṁ, sīlabbataparāmāsasaṁyoja-naṁ, vicikicchāsaṁyojanaṁ, uddhacca-saṁyojanaṁ, avijjāsaṁyojanaṁ, suttante.

(ix) Aparāni dasa saṁyojanāni: kāmarāgasaṁyo- janaṁ, bhavarāgasaṁyojanaṁ, paṭigha saṁyojanaṁ, mānasaṁyojanaṁ, diṭṭhi-saṁyojanaṁ, sīlabbataparāmāsasaṁyojanaṁ, vicikicchāsaṁyojanaṁ, issāsaṁyojanaṁ, macchariyasaṁyojanaṁ, avijjāsaṁyojanaṁ, abhidhamme.

(x) Dasa kilesā -- lobho, doso, moho, māno, diṭṭhi, vicikicchā, thīnaṁ, uddhaccaṁ, ahirikaṁ, anottappaṁ.

Āsavādīsu pan'ettha kāmabhavanāmena tabbatthukā taṇhā adhippetā. Sīlabbataparāmāso idaṁsaccābhiniveso attavādupādānaṁ ca tathā pavattaṁ diṭṭhigatam' eva pavuccati.

Āsavoghā ca yogā ca tayo ganthā ca vatthuto
Upādānā duve vuttā aṭṭha nīvaraṇā siyuṁ.
Chaḷevānusayā honti nava saṁyojanā matā
Kilesā dasa vutto' yaṁ navadhā pāpasaṅgaho.

Nhập Ðề

§1.

Bảy mươi hai pháp (1) đã được trình bày với những đặc tính của nó. Giờ đây tôi sẽ nói về những phân loại của các pháp ấy theo tương quan của chúng.

§ 2.

Toát yếu các phân loại phải được hiểu là có bốn:

Toát yếu những loại bất thiện pháp.
Toát yếu những loại pháp hổn hợp.
Toát yếu những loại pháp liên hệ đến sự giác ngộ.
Toát yếu những pháp linh tinh.

Như thế nào?

(i) Ðể khởi đầu, trong toát yếu những loại pháp bất thiện có bốn Hoặc Lậu (2):

1. Tham Dục (Dục Lậu), 2. Luyến ái duyên theo kiếp sinh tồn (Hữu Lậu), 3. Tà Kiến (Kiến Lậu), và 4. Vô Minh (Vô Minh Lậu).

(ii) Có bốn Bạo Lưu (cảnh ngập lụt) (3):

1. trận lụt của tham dục, 2. trận lụt của sự luyến ái duyên theo kiếp sinh tồn v.v... giống như trên từ 1 đến 4.

(iii) Có bốn Trói Buộc (4): (trói buộc của tham dục v.v... như trên 1-4)

(iv) Có bốn Thắt Chặt (thân) (5):

1. thắt chặt vào tham dục, 2. thắt chặt vào oán ghét, 3. thắt chặt vào lễ nghinghi thức sai lầm, 4. thắt chặt vào quan kiến độc đoán tin chắc rằng "chỉ có đây là chân lý".

(v) Có bốn Chấp Thủ (6):

1. chấp thủ tham dục, 2. chấp thủ tà kiến, 3. chấp thủ những lễ nghinghi thức sai lầm, và 4. chấp thủ thuyết linh hồn trường cửu (bản ngã) (7).

(vi) Có sáu Triền Cái (chướng ngại) (8). Chướng ngại của:

1. tham dục, 2. oán ghét, 3. dã dượi hôn trầm, 4. phóng dật lo âu, 5. hoài nghi, và 6. vô minh.

(vii) Có bảy Tùy Miên (tâm tánh ngủ ngầm) (9):

1. luyến ái theo dục lạc, 2. luyến ái theo kiếp sinh tồn, 3. sân hận, 4. ngã mạn, 5. tà kiến, 6. hoài nghi, và 7. vô minh.

(viii) Theo Kinh Tạng, có mười Thằng Thúc (dây trói buộc) (10):

1. luyến ái duyên theo dục lạc, 2. luyến ái duyên theo Sắc Giới, 3. luyến ái duyên theo Vô Sắc Giới, 4. sân hận, 5. ngã mạn, 6. tà kiến, 7. chấp thủ những lễ nghinghi thức sai lầm, 8. hoài nghi, 9. phóng dật, và 10. vô minh.

(ix) Theo Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) có mười Thằng Thúc (dây trói buộc) khác:

1. luyến ái duyên theo dục lạc, 2. luyến ái duyên theo kiếp sinh tồn, 3. sân hận, 4. ngã mạn, 5. tà kiến, 6. chấp thủ những lễ nghinghi thức sai lầm, 7. hoài nghi, 8. ganh tỵ, 9. xan tham, và 10. vô minh.

(x) Có mười Ô Nhiễm (11):

1. tham ái, 2. sân hận, 3. si mê, 4. ngã mạn, 5. tà kiến, 6. hoài nghi, 7. hôn trầm, 8. phóng dật, 9. không hổ thẹn (tội lỗi), và 10. không sợ (hậu quả của tội lỗi).

Nơi đây, trong sự phân loại các Ô Nhiễm v.v... câu "luyến ái duyên theo dục lạc" và "luyến ái duyên theo kiếp sinh tồn" hàm xúc lòng tham ái dựa trên đó. Cùng thế ấy, "chấp thủ những lễ nghinghi thức sai lầm", "quan kiến độc đoán tin chắc rằng "chỉ có đây là chân lý", và "chấp thủ thuyết linh hồn trường cửu" chỉ hàm ý là những "tà kiến" liên hệ.

Tóm lược

Ðúng ra những Ô Nhiễm, những trận Ngập Lụt, những Dây Trói Buộc, và những Thắt Chặt có ba. Có hai Chấp Thủ và tám Chướng Ngại. Tâm Tánh Ngủ Ngầm có sáu. Dây Trói Buộc phải được hiểu là có chín. Ô Nhiễm có mười. Sơ lược các loại bất thiện pháp nầy (12) có mười.

Chú Giải:

1. Vatthudhammā, Thực Thể.

Bốn thực tại cùng tột, hay chân đế, đề cập trong sáu chương đầu có thể được phân loại là 72 vatthudhammā, thực thể, tức là hiện tượng tồn tại với những bản chất thiên nhiên cố hữu dính liền. (1+52+18+1 = 72)

a) 1 -- Tất cả 89 loại tâm được xem là một vì tất cả đều có chung đặc tính là "hay biết'.

b) 52 -- Tất cả những tâm sở (cetasikas) được quan sát riêng rẽ bởi vì mỗi tâm sở có những đặc tính riêng biệt.

c) 18 -- Tất cả những sắc pháp được cấu tạo (nipphanna) được quan sát riêng rẽ vì có những đặc tính khác nhau.

d) 1 -- Niết Bàn (Nibbāna) là một, vì đặc tính của Niết Bànthanh bình an lạc. h.

Tất cả 72 đều là những thực thể chủ quan và khách quan được mô tả ở những chương trước. Trong chương nầy 72 sẽ được trình bày lẫn lộn.

2. Āsava, Hoặc Lậu.

Xuất nguyên từ "ā" + căn "su", trôi chảy. Ðuợc gọi như vậy vì āsava (hoặc lậu) trôi chảy đến tận đỉnh cao của những kiếp sinh tồnhiện hữu chí đến chặp tư tưởng Gotrabhū, Chuyển Tánh, (tức chặp tư tưởng tức khắc trước chặp tâm Ðạo, Magga, của vị Nhập Lưu, Sotāpatti). Trong vô lượng tiền kiếp, những āsavas (hoặc lậu) nầy hiện hữu ngủ ngầm bên trong tất cả những ai còn là phàm nhân, có thể được xem là chất độc dược cực kỳ nguy hiểm làm say đắm chúng sanh và có thể trồi lên mặt trong tất cả những cảnh giới sinh tồn. Ô nhiễm, Hư Hỏng, Ðồi Bại, Nhơ Bẩn, Chất Ðộc, Bợn Nhơ là một vài danh từ được xem là gần ý nghĩa với phạn ngữ "trứ danh một cách vô danh" nầy.

[Lời người dịch: Danh từ āsava thường được chuyển ngữ là hoặc lậu. Hoặc là mê tối, lầm lạc, như trong chữ mê hoặc. Lậu là rỉ ra, tiết lộ ra, và gây bợn nhơ. Ở đây là bợn nhơ tinh thần, phiền não tham, sân, si v.v... Lậu tậndiệt trừ phiền não. Khi lục căn tiếp xúc với lục trần không còn gây ra những ý tưởng bất thiện].

Trong bốn Āsavas (Hoặc Lậu), kāmāsava (dục lậu) có nghĩa là luyến ái theo dục lạc của ngũ trần, bhavāsava (hữu lậu) là luyến ái theo đời sống ở cảnh Sắc GiớiVô Sắc Giới, diṭṭhāsava (tà kiến lậu) là sáu mươi hai loại quan kiến lầm lạc [*] và avijjāsava (vô minh lậu) là trạng thái vô minh liên quan đến Tứ Diệu Ðế, đến đời sống quá khứ, vị lai, đến cả hai, đời sống quá khứđời sống vị lai, và Ðịnh Luật Tùy Thuộc Phát Sanh.

[*] Xem Brahmajāla Sutta - Dīgha Nikāya -- Kinh Phạm Vỏng, Trường A Hàm, số 1.

3. Ogha, Ngập Lụt.

Xuất nguyên từ "ava" + "han", gây tổn thương hay sát hại.

Chúng sanh bị chìm đắm trong luồng trôi chảy của trận lụt vĩ đại, bị quay cuồng giữa những dòng nước xoáy mãnh liệt, bị lôi cuốn thẳng ra biển cả rồi bị nhận chìm xuống tận đáy như thế nào, những trận ngập lụt (ogha) của đời sống cũng lôi cuốn chúng sanh rồi đẩy vào, nhận chìm trong những hoàn cảnh khốn cùng như thế ấy.

4. Yoga, Trói Buộc.

Xuất nguyên từ căn "yuj", trói buộc (như buộc chặt ách vào cổ bò). Yogas, là những trói buộc cột chặt chúng sanh vào vòng quanh những kiếp sinh tồn sanh tử-tử sanh vô cùng tận của vòng luân hồi.

5. Ganthas, Thắt Chặt.

Là những gì thắt chặt tâm với thân, hoặc là những gì thắt chặt thân trong hiện tại với thân trong những kiếp vị lai.

Nơi đây danh từ kāya được dùng trong ý nghĩa "một khối" hay "cơ cấu" -- tinh thần hay vật chất.

6. Upādāni, Chấp Thủ.

Xuất nguyên từ "upa" + "ā" và căn "dā", cho.

Thủ, upādāna là ái ở mức độ cao. Vì lẽ ấy trong pháp Paṭicca Samuppāda (Thập Nhị Nhân Duyên hay pháp Tùy Thuộc Phát Sanh), có câu: "Vì có taṇhā (ái dục) nên có upādāna (thủ)". Taṇhā, ái dục cũng như tên trộm rình mò trong đêm tối để trộm một vật. Upādāna giống như chính hành động trộm cắp.

7. Attāvādūpādāna, Thuyết Về Linh Hồn Trường Cửu.

Bản chú giải đề cập đến hai mươi mốt lý thuyết về linh hồn trường cửu (bản ngã vĩnh tồn) liên hệ đến Ngũ Uẩn như sau:

(i) Linh hồn (bản ngã) cùng với thân (cơ thể vật chất, sắc) là một,
(ii) Thân làm chủ linh hồn,
(iii) Linh hồn ở trong thân,
(iv) Thân ở trong linh hồn.

Bốn thuyết về linh hồn trường cửu (bản ngã) liên hệ với bốn Uẩn còn lại (thọ, tưởng, hành, thức) phải được hiểu cùng một thế ấy.

8. Nīvaranāni, Triền Cái.

Xuất nguyên từ "ni" + căn "var", gây chướng ngại, ngăn cản. Ðuợc gọi như vậy vì nó chận ngang con đường hướng về tình trạng an lạc của cảnh trời và hạnh phúc Niết Bàn. Theo bản chú giải, danh từ nầy có nghĩa là cái gì cản ngăn con đường hướng về các tầng Thiền (Jhānas) v.v..., của những tư tưởng thiện, hay cái gì không để cho các tầng Thiền phát triển, hay cái gì ngăn chận con mắt trí tuệ. Xem A Manual of Buddhism, trang 113-115, và The Buddha and His Teachings, chương 37.

Thông thường Nīvaranas, các pháp Triền Cái, được xem là có năm.

Cả hai cặp -- hôn trầmthụy miên, phóng dậtlo âu -- được kể chung vì chức năng (kicca), nguyên nhân (āhāra = hetu), và những yếu tố đối nghịch của các pháp nầy giống nhau. Chức năng của hôn trầmthụy miênchểnh mảng tinh thần, trì độn; chức năng của phóng dậtlo âu là băn khoăn áy náy, không yên. Nguyên nhân của hôn trầmthụy miêntình trạng lười biếng, của phóng dật lo âubất mãn, buồn phiền, chẳng hạn như vì cái chết của một người trong thân quyến v.v... Nghị lực đối nghịch với cặp hôn trầmthụy miên; tình trạng an tĩnh đối nghịch với phóng dật lo âu.

Tham dục được ví như nước pha lẫn với nhiều màu sắc khác nhau; sân hận, như nước nấu sôi; hôn trầmthụy miên, như nước đầy rong rêu, phóng dậtlo âu, như nước bị gió làm chao động; hoài nghi, như nước đục, đầy bùn nhơ.

Cũng giống như khi ta nhìn xuống mặt nước đục đầy bùn nhơ thì không thể thấy cái bóng của mình, cùng thế ấy, vì bị những chướng ngại tinh thần, gọi là pháp triền cái, cản ngăn ta không thể thấy cái gì dẫn đến tình trạng an lànhhạnh phúc cho chính ta và cho kẻ khác.

Pháp Triền Cái tạm thời bị các tầng Thiền (Jhānas) đè nén. Khi chứng ngộ Ðạo Quả Thánh các chướng ngại nầy sẽ hoàn toàn bị loại trừ. Hoài nghi, hay do dự không quả quyết, bị loại trừ khi chứng đắc Tu Ðà Huờn; tham dục, sân hậnlo âu bị loại trừ khi chứng đắc A Na Hàm; phóng dậtlo âu, khi đắc Ðạo Quả A La Hán.

9. Anusaya, Tâm Tánh Ngủ Ngầm (Tùy Miên).

Xuất nguyên từ "anu" + "si", nằm, ngủ.

Anusayas là những gì, vì chưa hoàn toàn bị loại trừ, còn nằm đó ngủ ngầm cho đến khi có cơ hội, trồi lên phát hiện trên mặt. Tất cả những khát vọng đều là anusayas, khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm. Nhưng có bảy là mạnh nhất. Khi còn là chúng sanh phàm tục, tức chưa đắc Quả Thánh, dầu đã thành đạt những cảnh giới Thiền cao tuyệt đỉnh, lúc tái sanh trở lại vào cảnh người cũng còn có thể bị những khuynh hướng tệ hại ấy tuôn tràn trổi dậy dễ dàng vì chúng nó chưa bị tận diệt, vẫn còn ngủ ngầm trong luồng nghiệp (tùy miên).

10. Saṁyojana, Thằng Thúc.

Từ "saṁ" + căn "yuj", gát ách, trói buộc.

Là những gì cột trói chúng sanh vào những kiếp sinh tồn của vòng luân hồi. Bằng bốn Ðạo (Magga) dần dần loại trừ những dây trói buộc nầy.

11. Kilesas, Ô Nhiễm, hay Phiền Não.

Là những gì làm bợn nhơ, hay gây đau khổ cho tâm.

12. Trong phần phân loại bất thiện pháp danh từ kāma đôi khi áp dụng cho Dục Giới, và bhava cho Sắc GiớiVô Sắc Giới. Lobha (tham ái) hàm ý là cả hai -- kāmataṇhā và bhavataṇhā. Luyến ái duyên theo cảnh Sắc GiớiVô Sắc Giới cũng được gọi là bhavataṇhā. Ba chữ -- sīlabbataparāmāsa (giới cấm thủ, tức tin theo những lễ nghinghi thức sai lầm), idaṁsaccābhinivesa (sự tin tưởng độc đoán rằng chỉ có đây là chân lý) và attavādūpādāna (lý thuyết về linh hồn trường tồn vĩnh cửu) -- hàm xúc ý nghĩa diṭṭhi, tà kiến. Cả hai danh từ kāmāsava và bhavāsava đều hàm ý là lobha (tham). Một cách chính xác, chỉ có ba hoặc lậu (āsava) là oghas, yogas, và ganthas (xem chú giải số 3, 4, và 5 cùng chương nầy).

Khi hai cặp -- thīna-middha và uddhacca-kukkucca, hôn trầm dã dượiphóng dật lo âu -- được xem là bốn tâm sở thì Nīvaraṇas, pháp triền cái có tám. Khi kāmarāga và bhavarāga (luyến ái duyên theo Dục Giớiluyến ái duyên theo Sắc GiớiVô Sắc Giới) được nhập chung với ái dục thì anusaya (khuynh hướng tâm tánh ngủ ngầm, hay tùy miên) được biết là có sáu. Mười saṁyojanas (thằng thúc), theo Suttanta (Tạng Kinh), còn bảy khi kāmarāga, rūparāga, arūparāga đuợc bao gồm trong lobha, và diṭṭhi và sīlabbata- parāmāsa được bao gồm trong diṭṭhi. Mười saṁyojanas được xem là còn tám khi kāmarāga và bhavarāga đuợc bao gồm trong lobha, và diṭṭhi và sīlabbataparāmāsa trong diṭṭhi. Kilesa (ô nhiễm) chính xác là mười. Như vậy, ta sẽ thấy rằng 14 tâm sở bất thiện, với số lượng nhiều hay ít khác nhau, nằm trong chín loại bất thiện pháp. Lobha nằm trong tất cả.

Đồ biểu 14

 

 

 

Hoặc lậu

Ngập lụt

Trói buộc

Thắt chặt

Chấp thủ

Triền cái

Tùy miên

Thằng thúc

Ô nhiễm

1

Lobha (Tanhā) - Tham, ái dục

9

+

+

+

+

+

+

+

+

+

2

Diṭṭthi - Tà kiến, hiểu biết lầm lạc

8

+

+

+

+

+

 

+

+

+

3

Avijā (Moha) - Vô minh

7

+

+

+

 

 

+

+

+

+

4

Paṭigha (Dosa) - Bất mãn, sân

5

 

 

 

+

 

+

+

+

+

5

Vicikicchā (Kaṅkhā) - Nghi, bất định

4

 

 

 

 

 

+

+

+

+

6

Māna - Ngã mạn

3

 

 

 

 

 

 

+

+

+

7

Uddhacca - Phóng dật

3

 

 

 

 

 

+

 

+

+

8

Thīna - Dã dượi

2

 

 

 

 

 

+

 

 

+

9

Kukkucca - Lo âu

1

 

 

 

 

 

+

 

 

 

10

Middha - Hôn trầm

1

 

 

 

 

 

+

 

 

 

11

Ahirika - Không hổ thẹn tội lỗi.

1

 

 

 

 

 

 

 

 

+

12

Anottappa- Không sợ tội lỗi

1

 

 

 

 

 

 

 

 

+

13

Issā - Ganh tị, đố kị

1

 

 

 

 

 

 

 

+

 

14

Macchariya - Xan tham

1

 

 

 

 

 

 

 

+

 

-ooOoo-


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31380)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26256)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27568)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27955)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26747)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31267)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20312)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22996)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30113)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21641)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20313)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22707)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20812)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30374)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28836)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34782)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44264)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35566)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22591)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21409)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20720)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24800)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37980)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19098)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19372)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21864)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20905)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29555)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35208)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28862)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32637)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26271)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28977)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43197)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 35000)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 44014)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37945)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21362)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43072)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49051)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39896)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53834)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36856)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40858)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49778)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47367)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27794)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27058)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27258)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24102)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20885)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34350)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22521)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25164)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25898)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22995)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22513)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21783)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23359)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21211)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant