Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Thanh Tịnh Ðạo

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 17205)
5. Thanh Tịnh Ðạo

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

Chương IX: ĐỀ MỤC HÀNH THIỀN

Thanh Tịnh Ðạo

Khi đã phát triển các tầng Thiền (Jhānas), tâm của hành giả trở nên trong sạch như mặt gương được lau chùi bóng loáng, phản chiếu mọi sự vật một cách rõ ràng, trung thực. Tuy nhiên, những tư tưởng xấu xa bất tịnh vẫn chưa hoàn toàn bị loại trừ, bởi vì tâm định chỉ tạm thời đè nén những khuynh hướng tâm tánh bất thiện mà không tận diệt. Các tâm bất thiện nầy có thể trồi lên mặt và tái phát bất cứ lúc nào, một cách bất ngờ.

Giới điều hòa hành động và lời nói; Ðịnh kiểm soát tâm; nhưng chính Tuệ (paññā), giai đoạn cuối cùng, giúp người có nguyện vọng tiến triển từ phàm trở nên thánh, tận diệt mọi ô nhiễm mà tâm Ðịnh (Samādhi) tạm thời khắc phục.

Trước tiên, hành giả trau dồi quan kiến trong sạch, "Kiến Tịnh" (diṭṭhi visuddhi) [1] để nhận thức thực tướng của vạn pháp, thấy sự vật đúng như sự vật là vậy. Với tâm nhứt điểm hành giả phân táchquan sát cái gọi là chúng sanh. Công trình quán sáttìm hiểu nầy cho thấy rằng cái được gọi là "Ta" chỉ là sự cấu hợp phức tạp của tâm và cơ thể vật chất, danh và sắc, cả hai đều ở trong trạng thái luôn luôn biến chuyển đổi thay, luôn luôn trôi chảy như một dòng suối trường lưu bất tức.

Khi đã thành đạt quan kiến chân chánh về bản chất thật sự của cái gọi là chúng sanh, và hoàn toàn dứt khoát với mọi ảo tưởng về một linh hồn trường cửu, hành giả cố tìm những nguyên nhân sanh ra cái "Ta", và nhận định rằng trong thế gian nầy vạn pháp đều do duyên sanh, không có chi tự nhiên phát khởi mà không tùy thuộc nơi một hay nhiều điều kiện, trong quá khứ hay ở hiện tại. Kiếp sống hiện tiền là do vô minh (avijjā), ái (taṇhā), thủ (upādāna), nghiệp (kamma) trong quá khứ, và vật thực trong kiếp sống hiện tại. Do năm nguyên nhân ấy cái gọi là chúng sanh được cấu tạo, và cũng như nguyên nhân quá khứ tạo duyên cho hiện tại, cùng thế ấy, nhân hiện tại tạo điều kiện cho tương lai. Chú tâm suy niệm như thế ấy hành giả vượt thoát ra khỏi mọi hoài nghi về quá khứ, hiện tại và tương lai [2].

Tiếp theo, hành giả suy niệm rằng tất cả những vật được cấu tạo, hay các pháp hữu vi, đều vô thường (anicca), phải chịu đau khổ (dukkha), và không có một linh hồn trường cửu (anattā). Hướng tầm mắt về bất luận nơi nào, hành giả chỉ thấy ba đặc tướng ấy phát lộ rành mạch, rõ ràng, không thể lầm lẫn. Hành giả nhận thức rằng đời sống chỉ là một sự trôi chảy, một di động liên tục do những nguyên nhân từ bên trong và bên ngoài chi phối, tạo duyên. Dầu ở các cảnh trời hay trên quả địa cầu hành giả không tìm được nơi nào có hạnh phúc thật sự, bởi vì mọi sự vật đều không ngừng chuyển biến đổi thay.

Trong lúc cố tâm chuyên chú hành thiền, suy tưởng về bản chất thật sự của đời sống như thế, sẽ có một ngày kia, trước sự ngạc nhiên của chính mình, hành giả chứng kiến một ánh hào quang (obhāsa) phát tủa ra từ thân mình. Lúc ấy hành giả chứng nghiệm một trạng thái an lạc thỏa thích, một cảm thọ hạnh phúc vắng lặng trước kia chưa từng bao giờ được biết. Hành giả càng tinh tấn củng cố tâm định, tâm đạo càng nhiệt thành và tăng trưởng vững chắc, chánh niệm càng trở nên rõ ràng toàn hảo, và tuệ Minh Sát càng trở nên sâu sắc bén nhạy một cách lạ thường. Lầm tưởng mức tiến bộ khá cao ấy là Ðạo Quả Thánh, nhất là vì thấy có hào quang, hành giả phát tâm ưa thích trạng thái tinh thần ấy. Nhưng rồi, sớm nhận thức rằng những hiện tượng mới mẻ ấy chỉ làm trở ngại tiến bộ tinh thầnđạo đức, hành giả trau giồi và phát triển trạng thái trong sạch của tuệ giác liên quan đến "Con Ðường và Không-Phải-Con-Ðường" [3].

Ðã nhận thức con đường chân chánh, hành giả gom tâm quán tưởng về sự phát sanh (udaya ñāṇa, tuệ sanh) và sự hoại diệt (vaya ñāṇa, tuệ diệt) của tất cả các pháp hữu vi. Trong hai trạng thái sanh và diệt, sự hoại diệt hiển lộ nổi bậtchiếm ưu thế hơn nên dần dần gây ấn tượng mạnh hơn trong tâm hành giả, bởi vì sự biến chuyển được nhận thấy hiển nhiênrõ ràng hơn sự trở thành. Do đó, hành giả hướng tâm chú niệm của mình về sự phân tán của sự vật (bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt) và nhận định rằng cả hai, danh và sắc, hai thành phần cấu tạo cái gọi là chúng sanh đều ở trong trạng thái luôn luôn đổi thay, trôi chảy, không thể tồn tại giống hệt trong hai khoảnh khắc kế tiếp. Bây giờ phát sanh đến hành giả sự hiểu biết rằng tất cả những gì bị phân tán đều đáng sợ (bhaya ñāṇa, tuệ kinh hãi). Toàn thể thế gian phát hiện trước mắt hành giả như một đống củi đang phừng cháy, một nguồn hiểm họa. Kế đó hành giả suy tưởng về tánh chất rách nát, đổ vỡ, và tạm bợ nhất thời (ādīnava ñāṇa, tuệ hiểm nguy) của thế gian đáng kinh sợ nầy, có cảm giác nhàm chán nó (nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản) và nảy sanh ý muốn tẩu thoát ra khỏi đó (muñcitukamyatā ñāṇa, tuệ muốn giải thoát).

Hướng về đối tượng ấy, hành giả chăm chú đặt chánh niệm vào ba đặc tướng vô thường, khổ, và vô ngã (paṭisaṅkhā ñāṇa, tuệ suy tư) và sau đó phát triển tâm xả trọn vẹn, hoàn toàn thản nhiên đối với các pháp hữu vi (tức các hành) -- không luyến ái cũng không ghét bỏ, hay bất toại nguyện -- đối với bất luận sự việc gì trên thế gian (upekkhā ñāṇa, tuệ xả) [4].

Khi đạt đến mức độ tinh thần nầy, hành giả chọn một trong ba đặc tướng vô thường, khổ, vô ngã, cái nào thích hợp với mình nhất, và gia công khai triển minh sát theo chiều hướng ấy cho đến ngày vẻ vang tươi sáng mà hành giả thành tựu mục tiêu cuối cùng -- Ðạo Quả Niết Bàn [5], mục tiêu cứu cánh cùng tột.

"Cũng như người đi trong đêm tối, nhờ trời chớp nhìn thấy quang cảnh quanh mình rồi giữ lại hình ảnh ấy trước mắt một ít lâu, cùng thế ấy, do cái chớp bật sáng lên của tuệ giác, hành giả nhoáng chứng ngộ Niết Bàn một cách rõ ràng, và hình ảnh ấy lưu niệm trong tâm, không còn phai mờ nữa [6]".

Vị hành giả chứng ngộ Niết Bàn lần đầu tiên được gọi là Tu Ðà Huờn (Sotāpanna, Nhập Lưu) -- người bước vào dòng suối chảy đến Niết Bàn lần đầu tiên. Dòng suối là Bát Chánh Ðạo.

Vị Tu Ðà Huờn (Nhập Lưu) không còn là người phàm tại thế (puthujjana) nữa mà đã trở thành bậc Thánh (Ariya).

Khi chứng đắc tầng Thánh đầu tiên vị Thánh Nhập Lưu tận diệt ba Thằng Thúc (saṁyojana), cũng gọi là Kiết Sử, tức là ba trong mười dây trói buộc cột trói chúng sanh vào những kiếp sinh tồn của vòng luân hồi. Ba dây trói buộc ấy là:

1. Sakkāya-diṭṭhi, Thân Kiến.

"sati" + "kāye" + "diṭṭhi", theo đúng ngữ nguyên, là quan kiến khi có một nhóm hay một tổ hợp tồn tại. Nơi đây danh từ kāya ám chỉ năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hay nói cách khác, là hợp thể phức tạp danh và sắc. Tin rằng có một thực thể không biến đổi, một linh hồn trường cửu trong khi, đó chỉ là một sự cấu thành, một tổ hợp tâm--vật-lý phức tạp, hiểu biếttin tưởng như vậy được gọi là sakkāya-diṭṭhi, thân kiến. Bộ Dhammasaṅgani [7], Pháp Tụ, sách phân loại các pháp, kể ra hai mươi loại lý thuyết về linh hồn khác nhau. Danh từ Sakkāya-diṭṭhi thường được dịch là ảo kiến về tự ngã, lý thuyết về bản ngã, hay ảo ảnh của bản ngã luận.

2. Vicikicchā, Hoài Nghi.

Có sự hoài nghi về:

1. Ðức Phật,
2. Giáo Pháp,
3. Giáo Hội Tăng Già,
4. giới luật (sikkhā),
5. quá khứ,
6. vị lai,
7. cả hai, quá khứvị lai, và
8. pháp Thập Nhị Nhân Duyên Paṭicca-Samuppāda) [8].

3. Sīlabbataparāmāsa, Giới Cấm Thủ.

Tin tưởng nơi những nghi thức và lễ cúng (một cách sai lầm). Bộ Dhammasaṅgani, Pháp Tụ, giải thích điểm nầy như sau:

"Có giáo lý của những vị đạoẩn dật và những vị Bà La Môn ngoài giáo lý nầy (tức ngoài Phật Giáo), dạy rằng ta có thể tự thanh lọc bằng cách giữ giới hay bằng những nghi thức cúng tế, hay bằng cả hai, nghiêm trì giới luật và hành đúng nghi thức cúng tế."

Ðể tận diệt bảy Thằng Thúc (saṁyojana) còn lại vị Tu Ðà Huờn còn phải tái sanh nhiều lắm là bảy lần. Niềm tin nơi Ðức Phật, Giáo Pháp, và Giáo Hội Tăng Già của Ngài thật hoàn toàn vững chắc. Bất luận trong trường hợp nào và không vì lý do gì Ngài còn vi phạm năm giới căn bản. Các Ngài không còn tái sanh vào khổ cảnh bởi vì đang vững tiến trên con đường dẫn đến giác ngộ.

Từ đây vị hành giả, bấy giờ là bậc Thánh Nhân đã thoáng chứng Niết Bàn từ xa, càng quyết tâm gia công, tiến bộ nhanh chóng, kiện toàn tuệ giác, trở thành bậc Tư Ðà Hàm (Sakadāgāmi, Nhứt Lai) tầng thứ nhì trong bốn tầng Thánh, bằng cách làm suy giảm hai Thằng Thúc (saṁyojana) là tham dục (kāmarāga, lòng tham duyên theo Dục Giới), và bất toại nguyện (paṭigha).

Vị Thánh Nhân nầy được gọi là Nhứt Lai vì Ngài chỉ còn tái sanh vào cảnh người một lần nữa thôi, nếu trong kiếp hiện tiền chưa đắc được Ðạo Quả A La Hán. Nên ghi nhận rằng vị Thánh Nhân Nhứt Lai (Tư Ðà Hàm), đắc tầng Thánh thứ nhì, chỉ có thể làm suy giảm sức trói buộc chặt chẽ của hai Thằng Thúc đã cột trói Ngài từ quá khứ vô tận. Mặc dầu là rất ít khi, nhưng đôi lúc các Ngài còn phải bận rộn vấn vương với một vài tư tưởng luyến áisân hận, tuy ở mức độ rất thấp.

Chí đến khi thành tựu tầng Thánh thứ ba, Anāgāmi, Bất Lai (A Na Hàm), Ngài mới trọn vẹn tận diệt hai Thằng Thúc ấy. Kể từ đó Ngài không còn tái sanh vào cảnh người hay cảnh trời Dục Giới nữa, vì đã hoàn toàn tận diệt mọi ham muốn thỏa mãn vật chất của Dục Giới.

Sau khi viên tịch ở đây Ngài tái sanh vào cảnh Vô Phiền Thiên, hay Tịnh Cư, cảnh giới hoàn toàn tinh khiết (Suddhāvāsa), thích hợp với các vị A Na HàmA La Hán.

Một cư sĩ tại gia, nếu là người độc thân, có thể chứng đắc Ðạo Quả A Na Hàm (Anāgāmi).

Bậc Thánh Bất Lai (A Na Hàm) giờ đây cố gắng thành tựu bước tiến cuối cùng để tận diệt năm Thằng Thúc còn lại là tâm luyến ái những cảnh Sắc Giới (rūparāga), luyến ái những cảnh Vô Sắc Giới (arūparāga), ngã mạn (māna), phóng dật (uddhacca), và vô minh (avijjā) và đắc Quả A La Hán, tầng Thánh cùng tột.

Những vị Nhập Lưu, Nhứt Lai, và Bất Lai được gọi là Sekhas, ta thường gọi là "bậc Hữu Học", trong ý nghĩa là những vị "còn phải học thêm nữa", bởi vì các Ngài còn cần phải tu luyện thêm nữa mới đến tuyệt đỉnh. Chư vị A La Hán được gọi là Asekhas, thông thường được dịch là "bậc Vô Học", vì các Ngài không còn phải học hay hành thêm.

Một vị A La Hán, Arahant, theo nghĩa đen là bậc Ứng Cúng -- xứng đáng thọ lãnh lễ vật cúng dường -- không còn tái sanh nữa vì Ngài không còn tạo nghiệp mới. Mầm mống tái tạo đã bị tận diệt.

Vị A La Hán nhận thức rằng tất cả những điều phải làm đã được hoàn tất viên mãn, gánh nặng phiền não đã được đặt xuống, và tất cả những hình thức ái dục, những mức độ vô minh, đều hoàn toàn bị tiêu diệt, loại trừ. Vị hành giả hữu phước ấy bấy giờ đã đến mức tột đỉnh cao quý hơn tất cả các cảnh trời, hoàn toàn dứt bỏ mọi tham vọng, mọi ô nhiễm của thế gian, và chứng nghiệm hạnh phúc vô cùng cao thượng mà ngôn ngữ trần gian phàm tục không thể mô tả -- hạnh phúc Niết Bàn.

Ghi chú:

[1] Giai đoạn thứ ba của Thanh Tịnh Ðạo (Visuddhi Magga).

[2] Kaṅkhāvitaraṇavisuddhi, Ðoạn Nghi Tịnh, là giai đoạn thứ tư của Con Ðường Trong Sạch (Thanh Tịnh Ðạo)

[3] Maggāmaggañāṇadassanavisuddhi, Ðạo Phi Ðạo Tri Kiến Tịnh, giai đoạn thứ năm của Thanh Tịnh Ðạo (visuddhimagga).

[4] Chín loại tuệ giác ấy -- tức udaya, vaya, bhaṅga, bhaya, ādīnava, nibbidā, muñcitukamyatā, paṭisaṅkhā, upekkhā ñāṇas được gọi chung là Paṭipadāñāṇādassanavisuddhi, Ðạo Tri Kiến Tịnh, quan kiến trong sạch trong sự phân biện phuơng thức thực hành, giai đoạn thứ sáu của Thanh Tịnh Ðạo.

[5] Tuệ giác nằm trong Ðạo siêu thế có tên là Ñāṇadassana Visuddhi, Tri Kiến Tịnh, giai đoạn thứ bảy của Thanh Tịnh Ðạo.

[6] Dr. Paul Dahlke.

[7] Xem bản dịch Dhammasaṅgani (từ Pāli ra Anh ngữ) trang 257-259.

[8] Xem bản dịch Dhammasaṅgani (từ Pāli sang Anh ngữ), trang 239.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31341)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26227)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27529)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27923)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26720)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31237)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20267)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22957)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30067)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21588)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20264)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22680)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20763)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30322)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28796)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34734)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44242)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35524)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22550)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21381)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20693)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24768)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37930)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19057)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19339)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20879)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29529)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35158)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28837)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32610)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26230)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28933)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43154)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34975)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43944)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37918)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21336)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43032)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 49021)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39850)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53786)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36831)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40816)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49740)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47321)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27725)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27032)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27236)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24080)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20860)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34323)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22483)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25130)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25855)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22958)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22475)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21764)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23326)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21188)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant