Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Ý nghĩa đề kinh Pháp Hoa

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9171)
Chương 1: Ý nghĩa đề kinh Pháp Hoa

KINH PHÁP HOA TINH YẾU
Bhikkhu Thích Thái Hòa

CHƯƠNG I
Ý NGHĨA ĐỀ KINH PHÁP HOA

Đề kinh Pháp Hoa, tiếng Phạn là: सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् = Saddharmapuṇḍarīkasūtram.

सद् = Sad, đi từ động từ सत् = Sat, có nghĩa là hiện thực, đích thực, thực tiễn, chân thực, vi diệu, điều không thể diễn tả được,… सद् = Sad, Ngài Pháp Hộ, năm 286 TL, dịch là chánh.1 Ngài La Thập, năm 406, dịch là diệu.2

धर्म = Dharma, đi từ động từ धृ = DHṚ, có nghĩa là bảo toàn, duy trì, làm cho hiện hữu, sắp xếp, làm cho có trật tự, duy trì để hiện hữu,… Do đi từ động gốc như vậy, nên Pháp hay dharma có nghĩa là nguyên tắc hay nguyên lý tồn tại,… Các Hán bản đều dịch là pháp. 

पुण्डरीक = Puṇḍarīka, có nghĩa là hoa sen trắng. Ngài Pháp Hộ, năm 265TL, phiên âm là Phân đà lỵ và năm 286TL, dịch là hoa. Ngài La Thập, năm 406 TL, Cấp đa và Xà na khuất đa, năm 601 TL, đều dịch là Liên hoa. Ngài Tăng Duệ là một trong bốn vị đại đệ tử xuất chúng của Ngài La Thập giải thích rằng, hoa sen là loài hoa đặc biệt hơn hết thảy các loài hoa. Và hoa đúng độ nở, gọi là Phân đà lợi. Hoa sen chưa nở là dụ cho nhị thừa đạo; nở ra mà đã rụng là dụ cho Niết bàn và hoa đang đúng độ nở là dụ cho kinh nầy.3

Theo Không Hải, Phân đà lợi là loài hoa sen có trăm lá thuận theo nhau, mỗi lá sen đều tiếp nối nhau hoàn chỉnh khả ái, lá ngoài cực trắng, dần dần vào phía bên trong có màu vàng nhạt, hương của hoa sen nầy thơm cực kỳ đặc biệt. Xưa vua Lưu Ly hại con gái dòng họ Thích, Ngài Đại Ca Diếp lấy hoa sen nầy trong hồ A nậu đạt rẩy nước tám công đức vào thân tâm người nữ khiến cho họ liền được an lạc, khi sanh mạng kết thúc liền được sanh thiên.

Nhơn rẩy nước hồ lên đầu hoa liền thành chủng tử, hoa ấy ngày nay vẫn còn. Hoa đẹp và lớn, thẳng hơn một thước, nên hoa sen loại ấy, gọi là Phân đà lợi.4 

Vậy, सद्धर्मपुण्डरीक = Saddharmapuṇḍarīka, có nghĩa là pháp đích thực, pháp hiện thực, pháp thuần khiết, pháp nguyên vẹn, pháp không thể diễn tả, pháp vi diệu,… Pháp ấy ví như hoa sen trắng.

Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp đích thực, pháp hiện thực, pháp chính xác của chư Phật, nên Ngài Pháp Hộ dịch सद्धर्मपुण्डरीकसूत्रम् = Saddharmapuṇḍarīkasūtram là Chánh pháp hoa kinh.5

Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.6

 Tại sao, ở kinh nầy, Đức Phật dùng hoa sen để ví dụ cho pháp? Vì đối tượng nghe kinh nầy là hàng Thanh văn, tức là những vị tu tập chưa chứng nhập được Pháp Niết bàn tuyệt đối, nên Đức Phật muốn dẫn dắt những vị nầy đi đến Niết bàn tuyệt đối ấy, vì vậy ở kinh nầy, Đức Phật đã sử dụng nhiều ví dụ để dụ cho pháp, khiến cho các đối tượng nghe pháp nương vào các ví dụ mà thâm nhập và thể chứng được pháp thân chân thực.

Trong tất cả các ví dụ ấy, hoa sen trắng là ví dụ rốt ráo, xuyên suốt, nguyên vẹn và thuần khiết cho pháp mà Đức Phật hiển thị ở trong kinh nầy. Hoa sen trắng là dụ cho Nhất thừa, Pháp thân chân thực hay Phật tính nơi hết thảy chúng sanh vậy.

Lại nữa, hoa sen được sử dụng để ẩn dụ cho kinh nầy, vì nó có những đặc điểm như sau:

1. Có hoa là có gương: Hoa sen, hễ khi có hoa là liền có gương. Đây là dụ cho nhân quả đồng thời của kinh Pháp hoa. Việc Long nữ hiến châu và liền thành Phật ở phẩm Đề bà đạt đa7 là hiển thị cho đặc điểm nầy.

Lại nữa, nhân quả đồng thời là dụ cho phương tiệncứu cánh, bản môn và tích môn, lý và sự, trí và bi, quyền và thực, đốn và tiệm, được trình bày ở trong kinh Pháp hoabất nhị. Nghĩa là chúng đồng thời có mặt trong nhau, không tách rời nhau.

2. Ở trong bùn không ô nhiễm: Hoa senđặc điểm ở trong bùn không ô nhiễm. Kinh Pháp Hoa đã sử dụng đặc tính nầy của hoa sen để dụ cho Phật tính. Phật tính của hết thảy chúng sanh tuy ở trong phiền não, nhưng không bị ô nhiễm. Việc Đề bà đạt đa phạm tội ngũ nghịch, đọa vô gián địa ngục, nhưng Phật tính nơi ông vẫn không mất, hễ hội đủ nhân duyên thì Phật tính nơi ông vẫn hiển lộ, nên ông đã được Đức Phật thọ ký thành Phật trong tương lai và ở phẩm Đà la ni, loài quỷ nữ do nhiều đời tạo ác nghiệp nên đã đọa vào quỷ đạo, nhưng Phật tính nơi họ không mất, hễ hội đủ nhân duyên thì Phật tính hiển lộ, vì vậy khi nghe kinh Pháp Hoa, Phật tính nơi họ liền sinh khởi và họ đã phát tâm hộ trì kinh Pháp Hoahiển thị đặc điểm nầy.

3. Hoa và cọng tách riêng với lá: Hoa senđặc tính hoa và cọng tách riêng với lá. Kinh Pháp Hoa đã sử dụng đặc tính nầy của hoa sen để ẩn dụ rằng, tam thừaThanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa đều từ nơi Nhất thừa mà biểu hiện, nhưng trong đó, Nhất thừa hay Phật thừatối thượng. Việc năm ngàn người, vì tâm tăng thượng mạn, bỏ đương hội Pháp Hoa lui vềhiển thị cho đặc điểm nầy.

4. Ong và bướm không thể hút nhụy: Do hoa senđặc tính nầy, nên kinh Pháp Hoa đã dùng đặc tính nầy để ẩn dụ rằng, đối với diệu pháp, thì hết thảy chúng sanh đều có, nhưng chúng sanh, vì tâm tăng thượng mạn,8 vì tâm tham dục, vì tâm tà kiến, vì tâm bé nhỏ, nên không tiếp nhận được diệu pháp. Những người đi nửa đường muốn trở quay về ở trong phẩm Hóa thành dụ là hiển thị cho đặc điểm nầy.

5. Không bị sử dụng để trang điểm: Do hoa senđặc tính nầy, nên kinh Pháp Hoa đã dùng đặc tính ấy để ẩn dụ rằng, những kẻ tiểu tâm, tà trí, buông lung theo các dục thì không thể sử dụng được diệu pháp để làm việc phi pháp, không thể lợi dụng chánh pháp để hành hoạt tà pháp. Người say quên hạt minh châu trong chéo áo của phẩm Năm trăm đệ tử thọ kýhiển thị cho đặc điểm nầy.

6. Hoa nở sen hiện: Do hoa senđặc tính nầy, nên kinh Pháp Hoa đã sử dụng đặc tính nầy để ẩn dụ rằng, ở trong diệu pháp có thực pháp và quyền pháp, ở trong Đức Phật lịch sửĐức Phật siêu lịch sử, ở trong thiên bách ức hóa thân của Phật Thích Ca đều có pháp thân không sanh diệt cũng như báo thân thanh tịnh và thường trú của Ngài. 

Quyền pháp là pháp phương tiện. Đức Phật đã sử dụng pháp nầy, tùy theo căn cơ, hoàn cảnh, trình độ của chúng sanh, mà Ngài vận dụng để thuyết pháp thích ứng, nhằm khai, thị, ngộ, nhập phật tri kiến cho chúng sanh, khiến cho hết thảy chúng sanh, dù đang ở vào vị trí nào, hoàn cảnh nào, trình độ nào cũng đều có thể ngộ, nhập được phật tri kiến.

Thực pháp là thực pháp của pháp hoa, là đệ nhất nghĩa chân thực. Pháp ấy là mục tiêu của Phật ra đời giáo hóa chúng sanh. Và là điểm đồng qui từ mọi phương tiện giáo hóa của Phật.

Đức Phật lịch sửĐức Phật ra đời cách đây hơn hai mươi sáu thế kỷ ở Népal Ấn Độ giáo hóa chúng sanh và đã nói kinh Pháp Hoa trên đỉnh Linh Sơn như ở phẩm Phương tiện của kinh nầy đã trình bày. Đức Phật siêu lịch sửĐức Phật siêu việt thời gian như phẩm Hiện Bảo Tháp và phẩm Như Lai Thọ Lượng của kinh nầy đã mô tả.

Do những đặc điểm thâm diệu của kinh như vậy, nên đặc điểm hoa nở sen hiện của hoa sen được sử dụng để nói lên những điểm thâm diệuthực tiễn của kinh nầy.

7. Hoa rụng sen thành: Với đặc điểm nầy của hoa sen, được sử dụng để ví dụ cho thời kỳ giáo hóa hàng đệ tử Thanh văn của Phật đã đến chỗ thuần thục rồi, nên Ngài không giảng dạy cho họ những kinh điển dưới mức Pháp Hoa mà phải giảng dạy kinh Pháp Hoathọ ký cho họ thành Phật trong tương lai. Đây gọi là thời kỳ Đức Phật thuyết pháp có nội dung phế quyền hiển thực, nghĩa là phế bỏ pháp phương tiệnchỉ thẳng pháp cứu cánh cho hàng thính chúng Thanh văn. Ví như hoa rụng thì sen thành. Việc các vị Bồ tát từ lòng đất vọt lên ở phẩm Tòng địa dõng xuất và việc Long nữ hiến châu ở phẩm Đề bà đạt đahiển thị cho đặc điểm nầy.

Đề kinh Pháp Hoa bao gồm cả Pháp và dụ một cách thực tiễnsâu xa như vậy, nên Ngài Nhật Liên Đại Sư (1222 – 1282), Tổ sư của Pháp Hoa Tông Nhật bản dạy rằng: “Chỉ cần thọ trì, đọc tụng đề kinh Pháp Hoa là có đủ nhân duyên để thành Phật”.

Theo Hám Sơn – Đức Thanh Đại Sư (1546 – 1623), đời Minh, đề kinh Pháp Hoachỉ thẳng Nhất chơn pháp giới của kho tàng tâm Như Lai. Và dùng ý nghĩa ấy mà lập tên vậy. Đại Sư còn giải thích, tâm cảnh không hai, thuần là nhất chơn, nên gọi là diệu pháp. Nhưng, hết thảy chúng sanh ở trong diệu pháp mà mê, nên gọi là “tạng thức”. Ở nơi “tạng thức” mà chư Phật giác ngộ, gọi là “Như Như lai tạng”. Y vào nhất tâmkiến lập “Pháp giới liên hoa tạng”.

Do đó, chơn vọng xuyên suốt, nhiễm tịnh dung thông, nhân quả đồng thời, thỉ chung đồng một ngằn mé.

Vì vậy, nếu ước theo dụ, thì lấy hoa sen làm biểu tượng, nhưng nếu ước theo pháp, thì chỉ thẳng bản thể giác ngộ của tâm (Pháp Hoa Kinh Thông Nghĩa).

Theo Thanh Đàm Đại Sư triều Gia Long, thì Diệu pháp là chỉ cho thực pháp. Pháp là tâm xưa nay thanh tịnh. Tâm ấy xưa nay không sinh, không diệt, không nhớp, không sạch, không thêm, không bớt, tại phiền não không loạn động, tại trần lao không ô nhiễm, nên gọi là tâm xưa nay thanh tịnh vậy.

Lại nữa, tâm ấy là bản nguyên của chư Phật, là phật tánh của chúng sanh. Tròn đồng thái hư, rộng lớn không ngằn mé. Linh linh, lặng lặng, suốt xưa, suốt nay, yên yên, lắng lắng, chính là không, chính là sắc, không thể dùng tâm thức suy lường, phân biệt mà có thể biết được.

Đức Thế Tôn, vì muốn đem một việc lớn là “đại tâm” nầy, mà trao phó cho hàng bồ tát, tạo thành nhân địa của tâm, làm gốc tu nhân, sau đó mới thành tựu quả địa tu chứng, nên gọi là diệu pháp.

Lại nữa, diệu pháptùy theo tác dụngthiết lập vô lượng tên gọi khác nhau như: Đại sự nhân duyên; Phật tri kiến đạo; Cứu cánh Phật tuệ; Nhất thiết chủng trí.

Liên hoathí dụ. Lấy trong sạch không ô nhiễm làm nghĩa. Tất cả thế gian không kham nhận tâm thanh tịnh ấy, nên kinh lấy hoa sen mà dụ cho tâm ấy. Hoa sen sinh ra ở trong bùn nước, nhưng không bị bùn nước làm cho ô nhiễm, cũng như tâm ở trong trần lao mà không bị trần lao làm mê hoặc.

Tuy nhiên, tâm khônghình tướng, nhưng hoa lại có xanh vàng. Do nhân nơi hoa mà rõ được cái thấy. Nhân nơi cái thấy mà biết hoa. Sắc tướng của hoa là vô tình. Cái thấy, cái biết thuộc về tâm chân thực. Chỉ cần không vọng khởi phân biệt, thì vạn vật và ta vốn là như như.9

Tóm lại, đề kinh đã dùng hoa sen để ví dụ cho diệu pháp. Diệu pháp chính là nhất thừanhất thừaPhật tính. Phật tínhtính giác ngộ vốn có nơi hết thảy chúng sanh. Tuy, chúng sanh đang bị trôi lăn trong bùn lầy sanh tử, nhưng Phật tính nơi họ không những không mất, mà còn không bị ô nhiễm, hễ đủ duyên thì Phật tính ấy sẽ khởi sinh và tựu thành quả vị giác ngộ. Cũng vậy, ví như hoa sen, tuy bị chìm ngập ở trong nước bùn, nhưng đủ duyên và đúng thời, nó sẽ nở ra hương thơm thanh khiết, vô nhiễm.

Do đó, đề kinh đã dùng hoa sen để ví dụ cho đạo lý nhất thừa hay Phật tính vậy.

Lại nữa, theo Pháp Hoa Kinh Khai Đề, Diệu Pháp Liên Hoamật hiệu của Quán Tự Tại Vương, danh hiệu Phật nầy cũng còn gọi là Vô Lượng Thọ, hiện đã thành Phật ở nơi quốc độ Tịnh Diệu. Nhưng, khi lưu lại ở thế giới tạp nhiễm đầy năm sự dơ bẩn, làm vị Bồ tát Quán Tự Tại với tên Nhất thiết pháp bình đẳng Quán tự tại trí ấn.

Nếu có những ai nghe được lý thú nầy, mà thọ trì, đọc tụng, tác ý, tư duy, thì cho dù người ấy đang ở trong thế giới của các dục, nhưng ví như hoa sen, ở trong trần cấu mà không bị khách trần làm cho ô nhiễm, người ấy có thể nhanh chóng thành tựu quả vị Vô thượng bồ đề.

Và lại nữa, Diệu Pháp Liên Hoabản thể của thế giới Liên Hoa Đài Tạng, là Thuờng Tâm Bản Địa của đức Phật Tỳ Lô Giá Na.10

Như vậy, đề kinh không những chỉ dùng hoa sen dụ cho pháp mà còn dùng hoa sen để dụ cho tên gọi của hạnh tu và bản thể của pháp chứng ngộ nữa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12566)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10174)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12355)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15349)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12111)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12091)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12560)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13533)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11643)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14525)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12619)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11171)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15320)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12224)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11489)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14276)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19710)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24615)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant