Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 25: Quan Âm đại sĩ: vị Toàn diện

20 Tháng Năm 201100:00(Xem: 9379)
Phẩm 25: Quan Âm đại sĩ: vị Toàn diện

KINH PHÁP HOA
(Hoa Sen Của Chánh Pháp)
Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

CUỐN 7

Phẩm 25: Quan Âm đại sĩ: vị Toàn diện

Vào lúc bấy giờ, bồ tát Vô tận Ý đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, trần vai bên phải, chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà thưa, bạch đức Thế Tôn, Quan Âm đại sĩlý do gì mà danh hiệu là Quan Thế Âm?

Đức Thế Tôn dạy bồ tát Vô tận Ý, thiện nam tử, vô số chúng sinh bị mọi sự đau khổ, nghe nói đến Quan Âm đại sĩ mà một lòng trì niệm danh hiệu của ngài, thì đại sĩ tức khắc nghe thấy âm thanh ấy và họ được thoát cả.

Trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ thì vào lửa dữ, lửa ấy không đốt được, và đó là do thần lực của vị đại sĩ này. Nếu bị nước lớn trôi cuốn mà trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, thì tức khắc được chỗ nước cạn. Trăm ngàn vạn ức người, vì kiếm bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chân châu, và những thứ quí báu cùng loại, nên ra biển cả; giả sử bị trận gió dữ làm u ám mặt biển và bầu trời, thổi bạt thuyền tàu sa vào đảo quốc la sát, trong những người ấy đến nỗi chỉ có một kẻ trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, những người ấy cũng vẫn thoát được cái họa la sát. Vì những lý do như vậy mà vị đại sĩ này danh hiệuQuan Thế Âm.

Người nào sắp bị hành hình mà trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, thì dao gậy trong tay đao phủ tức khắc gãy ra từng đoạn và người ấy thoát được. Giả sử đầy cả đại thiên thế giớidạ xoa, la sát, muốn đến hại người nào mà nghe người ấy trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, thì những quỉ dữ này không thể nhìn người ấy bằng mắt dữ, huống chi làm hại. Bất cứ có tội không tội, người nào bị gông cùm xích buộc mà trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, thì những hình cụ ấy đứt và hỏng cả, và người này tức thì thoát được. Giả sử đầy cả đại thiên thế giới là giặc cướp, có người cầm đầu một đoàn người đi buôn, mang cầm vàng ngọc quí giá mà đi qua con đường nguy hiểm; trong đoàn ấy có kẻ nói, các thiện nam tử, đừng sợ, chúng ta nên hết lòngtrì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ. Vị đại sĩ này có thể ban cho mọi người sự không sợ hãi; chúng ta trì niệm danh hiệu đại sĩ thì sẽ thoát được giặc cướp trên con đường này. Đoàn người đi buôn nghe nói thì đồng thanh mà niệm nam mô Quan thế Âm bồ tát. Nhờ sự trì niệm danh hiệu đại sĩ mà tức khắc thoát được. Vô tận Ý, thần lực Quan Âm đại sĩ đồ sộ đến như thế ấy.

Ai có tính đa dâm mà thường xuyên trì niệm tôn kính Quan Âm đại sĩ thì thoát được tính ấy. Ai có tính đa sân mà thường xuyên trì niệm tôn kính Quan Âm đại sĩ thì thoát được tính ấy. Ai có tính đa si mà thường xuyên trì niệm tôn kính Quan Âm đại sĩ thì thoát được tính ấy. Vô tận Ý, Quan Âm đại sĩthần lực vĩ đại, ích lợi rất nhiều như vậy. Do vậy mà mọi người nên thường xuyên tâm niệm đại sĩ.

Nữ nhân nào muốn cầu con trai mà lễ bái hiến cúng Quan Âm đại sĩ, thì sinh được con trai vừa có phước đức vừa có trí tuệ. Nữ nhân nào muốn cầu con gái mà lễ bái hiến cúng Quan Âm đại sĩ, thì sinh được con gái đoan chính, đẹp, có gốc rễ phước đức gieo trồng trong đời trước, và được mọi người mến trọng. Vô tận Ý, Quan Âm đại sĩthần lực như vậy, ai tôn kính lễ bái thì được phước chứ không phải vô hiệu quả.

lý do này mà mọi người nên trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ. Vô tận Ý, ai trì niệm danh hiệu liệt vị bồ tát nhiều bằng hằng sa, và suốt đời hiến cúng đồ ăn đồ uống đồ mặc đồ nằm và dược phẩm, thì ý ông nghĩ thế nào, thiện nam hay thiện nữ ấy được phước nhiều không? Rất nhiều, bạch đức Thế Tôn. Bồ tát Vô tận Ý thưa như vậy, và đức Thế Tôn lại nói, ai trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ, và đến nỗi chỉ lễ bái hiến cúng được một thì gian mà thôi, phước người này với phước người trước chính xác đồng đẳng, không khác gì nhau, và hưởng thụ đến trăm ngàn vạn ức thời kỳ cũng vẫn không thể cùng tận. Vô tận Ý, trì niệm danh hiệu Quan Âm đại sĩ được phước không có số lượng và không có giới hạn như vậy.

Bồ tát Vô tận Ý lại thưa, bạch đức Thế Tôn, Quan Âm đại sĩ du hóa thế giới hệ Kham nhẫn này như thế nào? Đại sĩ thuyết pháp như thế nào cho chúng sinh? Phương cách thích nghi của đại sĩ là như thế nào?

Đức Thế Tôn dạy bồ tát Vô tận Ý, thiện nam tử, người ở thế giới nào nên hóa độ bằng thân hình Phật đà thì Quan Âm đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Duyên giác thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Thanh văn thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp. Người nào nên hóa độ bằng thân hình Phạn vương thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Đế thích thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Tự tại thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Đại tự tại, thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Thiên đại tướng quân thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình Tỳ sa môn thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp. Người nào nên hóa độ bằng thân hình quốc chúa thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình trưởng giả thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình cư sĩ thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình tể quan thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp, người nào nên hóa độ bằng thân hình bà la môn thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp. Những người nên hóa độ bằng thân hình tỷ kheotỷ kheo ni, ưu bà tắcưu bà di, thì đại sĩ biến thể những thân hình ấy mà thuyết pháp. Những người nên hóa độ bằng thân hình phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, tể quanbà la môn, thì đại sĩ biến thể những thân hình phụ nữ ấy mà thuyết pháp. Những người nên hóa độ bằng những thân hình đồng nam và đồng nữ, thì đại sĩ biến thể những thân hình ấy mà thuyết pháp. Những ai nên hóa độ bằng những thân hình tám bộ thì đại sĩ biến thể những thân hình ấy mà thuyết pháp. Ai nên hóa độ bằng thân hình thần Chấp kim cang thì đại sĩ biến thể thân hình ấy mà thuyết pháp.

Vô tận Ý, Quan Âm đại sĩ hoàn hảo năng lực như vậy: dùng mọi thân hình vào mọi thế giớihóa độ cho chúng sinh. Do vậy mà chư vị nên hết lòng hiến cúng Quan Âm đại sĩ. Trong nỗi kinh hoàng, trong cơn nguy cấp, trong sự hoạn nạn, Quan Âm đại sĩ có thể cho người sự không sợ hãi, nên thế giới hệ Kham nhẫn này ai cũng tôn xưng là Người cho sự không sợ.

Bồ tát Vô tận Ý liền thưa, bạch đức Thế Tôn, nay con xin hiến cúng Quan Âm đại sĩ. Thưa rồi, vị bồ tát này cởi ngay xâu chuổi đủ thứ ngọc quí đang mang nơi cổ, giá trị trăm ngàn lạng vàng, hiến lên Quan Âm đại sĩ mà thưa, bạch đại sĩ, xin đại sĩ nhận cho một cách hiến cúng theo chánh pháp bằng xâu chuỗi ngọc quí giá này. Nhưng Quan Âm đại sĩ không nhận. Bồ tát Vô tận Ý lại thưa, bạch đại sĩ, xin đại sĩ thương tôi và thương chúng sinh mà nhận cho. Lúc ấy đức Thế Tôn dạy Quan Âm đại sĩ, hãy thương bồ tát Vô tận Ý, thương bốn chúng tám bộ mà nhận xâu chuỗi ngọc ấy. Quan Âm đại sĩ tức khắc thương mà nhận, và phân xâu chuỗi ngọc ấy làm hai phần, một phần hiến cúng đức Thế Tôn, một phần hiến cúng bảo tháp của đức Đa Bảo.

Đức Thế Tôn nói, Vô tận Ý, Quan Âm đại sĩ với thần lực tự tại như vậy mà du hóa thế giới hệ này.

Bấy giờ bồ tát Vô tận Ý lại thưa hỏi đức Thế Tôn bằng lời chỉnh cú sau đây.

(1) Bạch đức Thế Tôn,

đấng đầy tướng quí!

cho con hỏi lại:

vị con Phật này

lý do

tên Quan thế Âm?

(2) Vào lúc bấy giờ

đấng đầy tướng quí

cũng dùng chỉnh cú

đáp lại như sau.

(3) Này Vô tận Ý,

hãy nghe cho khéo.

Việc làm Quan Âm

là khéo đáp ứng

hết thảy mọi người

ở khắp mọi nơi,

với sự thệ nguyện

sâu rộng như biển -

một sự thệ nguyện

cực kỳ hùng vĩ,

vô cùng trong sáng,

và được đại sĩ

đã từng phát ra,

trong khi trải qua

vô số thời kỳ

không thể nghĩ bàn

phụng sự rất nhiều

vạn ức đức Phật.

(4) Nay đây Như Lai

chỉ nói vắn tắt.

Ai nghe danh hiệu

hoặc thấy hình tượng

Quan Âm đại sĩ,

chuyên tâm trì niệm

chứ không bỏ qua,

thì hết đau khổ

ở trong những nơi

còn có đau khổ.

(5) Bị kẻ ác ý

xô xuống hố lửa,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm tắt hố lửa

như bị nước tưới.

(6) Trôi nổi biển cả

rồng, cá, quái vật,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm cho sóng nước

không thể nhận chìm.

(7) Trên đỉnh Tu di

bị xô rơi xuống,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm như mặt trời

đứng trong không gian.

(8) Kẻ ác đuổi rơi

chân núi đá cứng,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm không thương tổn

đến một mảy lông.

(9) Giặc thù bao vây

cầm đao muốn hại,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm giặc thù ấy

sinh ra hiền lành.

(10) Bị họa vua chúa

sắp bị hành hình,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm gươm đao phủ

gãy liền từng đoạn.

(11) Giam cầm gông xích

tay còng chân cùm,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm cho rời ra

mà thoát được liền.

(12) Trù, ếm, thuốc độc

muốn gây tai họa,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm cho về lại

nơi kẻ gây ra.

(13) Nếu bị la sát

rồng độc, quỉ dữ,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm chúng tức thì

không dám làm hại.

(14) Thú dữ bao vây

nanh vuốt ghê rợn,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm chúng mau lẹ

tháo chạy mất hút.

(15) Rắn rít tiết phun

hơi độc như khói,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm chúng tự đi

liền theo tiếng niệm.

(16) Giông tố sấm sét

mưa đá mưa lớn,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm cho tiêu tan

liền theo tiếng niệm.

(17) Chúng sinh khốn đốn

vì bao đau khổ,

cái nhìn tuệ giác

của Quan thế Âm

đầy cả năng lực

cứu khổ cho đời.

(18) Quan Âm đại sĩ

đầy thần thông lực

đầy tuệ giác lực

đầy phương tiện lực,

cho nên khắp cả

mười phương thế giới

không đâu mà không

biến thể xuất hiện.

(19) Chỗ dữ địa ngục

ngạ quỉ súc sinh,

cho đến khổ lớn

sinh già bịnh chết,

đại sĩ làm cho

dần dần hết sạch.

(20) Nhìn đúng sự thật,

nhìn thật trong suốt,

nhìn với tuệ giác

vô cùng vĩ đại,

nhìn bằng đại bi,

nhìn theo đại từ,

nên hãy thường xuyên

nguyện cầu chiêm ngưỡng.

(21) Là thể trong suốt

sáng không tỳ vết,

là vầng tuệ nhật

phá tan hắc ám,

là lửa rực sáng

xua tan tai nạn,

ngài trải hào quang

khắp cả trần gian.

(22) Bản thể đại bi

như sấm thức tỉnh,

ý thức đại từ

như mây dồn lớn,

đại sĩ mưa xuống

nước Pháp cam lộ

rưới tắt lửa dữ

của bao phiền não.

(23) Đối chất cửa quan,

kinh hoàng chiến trận,

năng lực trì niệm

Quan Âm đại sĩ

làm cho giặc thù

lui bước tan rã.

(24) Tiếng cực tinh tế,

tiếng nhìn vào đời,

tiếng giống Phạn thiên,

tiếng như hải triều,

tiếng hơn tất cả

cung bậc trong đời,

nên hãy thường xuyên

chuyên tâm trì niệm.

(25) Hãy niệm liên tục,

đừng có hoài nghi;

trong cơn đau khổ,

chết chóc, nguy khốn,

Quan Âm đại sĩ

vị Thanh Tịnh ấy

nơi nương tựa

cho bao chúng sinh.

(26) Là bậc trọn vẹn

phẩm chất hoàn hảo,

là mắt từ bi

nhìn xuống chúng sinh,

là biển dồn lại

vô lượng phước đức,

vị đại sĩ ấy

đáng kính đáng lạy.

Bấy giờ bồ tát Trì Địa liền đứng dậy từ chỗ mình ngồi, bước tới trước đức Thế Tôn mà thưa, bạch đức Thế Tôn, người nào được nghe phẩm nói về Quan Âm đại sĩ _ về đấng diệu dụng tự tạithần lực biến thể một cách toàn diện, thì biết công đức người ấy đã có không ít.

Khi đức Thế Tôn tuyên thuyết phẩm nói về vị Toàn diện này, trong các chúng có tám vạn bốn ngàn người cùng phát tâm tuệ giác vô thượng là tâm tuyệt bậc mà đồng bậc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12531)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10860)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10531)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11205)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12012)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13168)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13661)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33684)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11349)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12944)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13069)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11643)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17910)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11453)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11871)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11521)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18989)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12566)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13157)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15790)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11832)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12785)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12643)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13979)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13008)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12961)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13309)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12719)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11766)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11744)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12352)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12397)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19839)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11979)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12001)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16898)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12685)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15073)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16133)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12900)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12256)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11932)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11937)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13166)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16521)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13239)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12507)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11835)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19874)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11172)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11272)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10411)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11108)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10983)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10052)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11762)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant