Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20-Sống đời sống tôn giáonhạy cảm đến thực tại

28 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8836)
20-Sống đời sống tôn giáo là nhạy cảm đến thực tại

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Things by Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 20
Sống đời sống tôn giáonhạy cảm đến thực tại

 Cánh đồng xanh đó với những bông hoa vàng sậm và một dòng suối đang chảy qua là một cảnh dễ thương khi nhìn ngắm, phải vậy không? Chiều hôm qua tôi đang nhìn ngắm nó, và khi thấy được vẻ đẹp và sự yên lặng tuyệt vời của vùng quê người ta luôn luôn tự hỏi cái gì là vẻ đẹp. Có một phản ứng ngay lập tức đến cái đẹp đẽ và cũng đến cái xấu xí, phản ứng của vui thú hay của đau khổ, và chúng ta diễn tả cảm thấy đó thành từ ngữ khi nói rằng, “Cái này đẹp” hay “Cái này xấu.” Nhưng điều gì cần chú ý không là vui thú hay đau khổ; trái lại nó là hiệp thông cùng mọi thứ, nhạy cảm đến cả xấu xí lẫn đẹp đẽ.
 
Bây giờ, vẻ đẹp là gì? Đây là một trong những câu hỏi căn bản nhất, nó không hời hợt, vì vậy đừng gạt nó đi. Hiểu rõ vẻ đẹp là gì, có ý thức của tốt lành đó mà thể hiện khi cái trí và tâm hồn hiệp thông cùng một thứ gì đó dễ thương và không có bất kỳ ngáng trở để cho người ta cảm thấy hoàn toàn thoải máichắc chắn rằng, điều này có ý nghĩa lớn lao trong cuộc sống; và chỉ cho đến khi chúng ta cảm thấy được trạng thái đáp lại đến vẻ đẹp này thì cuộc sống của chúng ta mới không còn nông cạn. Người ta có lẽ được vây quanh bởi vẻ đẹp lớn lao, bởi núi non và những cánh đồng và những dòng sông, nhưng nếu người ta không sinh động với tất cả người ta có lẽ đã chết rồi.
 
Bạn, những cô gái và những cậu trai và những người lớn hơn chỉ cần đặt cho mình câu hỏi này: vẻ đẹp là gì? Sạch sẽ, ăn mặc gọn gàng, một nụ cười, một cử chỉ duyên dáng, nhịp nhàng khi bước đi, một bông hoa trên mái tóc của bạn, cách cư xử tốt, nói năng rõ ràng, đầy ý tứ, ân cần với những người khác, mà gồm cả sự đúng giờ – tất cả việc này là một phần của vẻ đẹp; nhưng nó chỉ ở trên bề mặt, phải vậy không? Và đó là tất cả đối với vẻ đẹp, hay còn có một cái gì đó sâu xa hơn.
 
Có vẻ đẹp của hình dáng, vẻ đẹp của sắp xếp, vẻ đẹp của cuộc sống. Bạn có khi nào quan sát hình dáng dễ thương của một cái cây khi nó um tùm lá, hay sự tinh tế lạ thường của một cái cây trơ trụi đứng tương phản với bầu trời hay không? Những cảnh như thế đó đầy vẻ đẹp khi nhìn ngắm, nhưng tất cả chúng là những diễn tả hời hợt của một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Vì vậy chúng ta định nghĩa vẻ đẹp là gì?
 
Bạn có lẽ có một khuôn mặt đẹp, một nét mặt sáng sủa rõ ràng, bạn có lẽ ăn mặc thời trang và có cách cư xử chải chuốt, bạn có lẽ vẽ đẹp hoặc viết hay về vẻ đẹp của phong cảnh, nhưng nếu khôngý thức bên trong của tốt lành thì tất cả những diễn tả bên ngoài của vẻ đẹp chỉ dẫn đến một cuộc sống rất hời hợt, giả tạo, một cuộc sống không có nhiều ý nghĩa
 
Vì vậy chúng ta phải hiểu được vẻ đẹp thực sự là gì, phải vậy không? Bạn làm ơn lưu ý, tôi không đang nói rằng chúng ta nên tránh những thể hiện bên ngoài của vẻ đẹp. Tất cả chúng ta đều phải có sự cư xử đúng đắn, chúng ta phải giữ gìn thân thể sạch sẽ và ăn mặc đàng hoàng, mà không phô trương quá, chúng ta phải đúng giờ, rõ ràng trong lời nói của chúng ta, và mọi chuyện như thế. Những sự việc này là cần thiếtchúng ta tạo ra một bầu không khí dễ chịu; nhưng nó không có nhiều ý nghĩa trong chính nó. 
 
Chính vẻ đẹp bên trong mới mang lại nét duyên dáng, sự nhã nhặn lạ thường cho hình dáng và điệu bộ bên ngoài. Và vẻ đẹp bên trong này là gì mà nếu không có nó cuộc sống của người ta sẽ rất nông cạn? Bạn có bao giờ suy nghĩ điều đó hay không? Có thể là không. Bạn quá bận rộn, cái trí của bạn quá bận rộn bởi công việc học hành, bởi chơi đùa, bởi chuyện trò, cười cợt và chọc ghẹo nhau. Nhưng giúp đỡ bạn khám phá cái gì là vẻ đẹp bên trong, mà nếu không có nó hình dáng điệu bộ bên ngoài chẳng có ý nghĩa bao nhiêu, là một trong những chức năng của giáo dục đúng đắn; và sự trân trọng sâu xa về vẻ đẹp là một phần thiết yếu trong cuộc sống riêng của bạn.
 
Liệu một cái trí nông cạn có thể nào trân trọng vẻ đẹp hay không? Nó có lẽ nói về vẻ đẹp; nhưng liệu nó có thể trải nghiệm sự tràn trề của hân hoan vô tận này khi nhìn ngắm một cái gì đó rất dễ thương hay không? Khi cái trí chỉ quan tâm đến chính nó và những hoạt động riêng của nó, nó không đẹp đẽ; dù nó làm gì chăng nữa, nó vẫn còn xấu xa, bị giới hạn, vì vậy nó không có khả năng nhận biết vẻ đẹp là gì. Trái lại, một cái trí không quan tâm đến chính nó, một cái trí được tự do khỏi tham vọng, một cái trí không bị trói buộc trong những ham muốn riêng của nó hay là bị thúc đẩy bởi sự theo đuổi thành công riêng của nó – một cái trí như thế rất khoáng đạt, và nó nở hoa trong tốt lành. Bạn hiểu không? Chính tốt lành bên trong này mới mang lại vẻ đẹp, thậm chí cho cả một khuôn mặt tạm gọi là xấu xí. Khi có tốt lành bên trong, khuôn mặt xấu xí được chuyển đổi, vì tốt lành bên trong thực sự là trạng thái cảm thấy rất sâu sắc của tôn giáo.
 
Bạn có biết sống đời sống tôn giáo là gì không? Nó không liên quan gì đến tiếng chuông của đền chùa, mặc dù chúng ta nghe hay hay từ khoảng cách xa, cũng không liên quan gì đến nghi lễ, và cũng chẳng liên quan gì đến những buổi lễ của những vị giáo sĩ và tất cả những vô lý của nghi thức đó. Sống đời sống tôn giáo là sống nhạy cảm đến thực tại. Toàn thân tâm bạn – thân thể, cái trí và tâm hồnnhạy cảm đến đẹp đẽ và đến xấu xí, đến con lừa bị trói vào cái cột, đến sự nghèo đói và bẩn thỉu trong thị trấn này, đến tiếng cười và những giọt nước mắt, đến mọi thứ quanh bạn. Từ nhạy cảm đến toàn thể hiện hữu này nẩy mầm tốt lành, tình yêu; và nếu khôngnhạy cảm này không có vẻ đẹp, mặc dù bạn có lẽ có tài năng, bạn có lẽ ăn mặc rất tươm tất, đi những chiếc xe đắt tiền và ý tứ đến từng chi tiết nhỏ nhặt.
 
Tình yêu là một cái gì đó lạ thường lắm, phải vậy không? Bạn không thể thương yêu nếu bạn đang suy nghĩ về chính mình – mà không có nghĩa rằng bạn phải suy nghĩ về một người khác. Tình yêu là, nó không có mục tiêu. Thực ra cái trí thương yêu là một cái trí tôn giáo bởi vì nó ở trong chuyển động của thực tại, của sự thật, của Chúa, và chỉ một cái trí như thế mới biết được vẻ đẹp là gì. Cái trí không bị trói buộc trong bất kỳ triết lý nào, không bị vây bủa trong bất kỳ hệ thống hay niềm tin nào, không bị lay động bởi tham vọng riêng của nó và vì vậy nhạy cảm, tỉnh táo, canh chừng – cái trí như thế có vẻ đẹp.
 
Khi còn bé bạn rất cần học cách sống ngăn nắp và sạch sẽ, ngồi đàng hoàng mà không cử động liên tục, có tư thế nghiêm chỉnh khi ngồi tại bàn và ân cần, ý tứ, đúng giờ; nhưng tất cả những sự việc này, dù cần thiết bao nhiêu chăng nữa, đều là hời hợt, và nếu bạn chỉ vun quén những điều hời hợt mà không hiểu rõ sự việc sâu xa hơn, bạn sẽ không bao giờ biết được ý nghĩa thực sự của vẻ đẹp. Một cái trí không lệ thuộc vào bất kỳ quốc gia, nhóm người hay tổ chức nào, không có uy quyền, không bị thúc đẩy bởi tham vọng hay bị giam giữ bởi sợ hãi – một cái trí như thế luôn luôn đang nở hoa trong tình yêu và tốt lành. Bởi vì nó ở trong chuyển động của thực tại, nó biết vẻ đẹp là gì; nhạy cảm đến cả xấu xíđẹp đẽ, nó là một cái trí sáng tạo, nó có hiểu biết không giới hạn.

Người hỏi: Nếu tôi có tham vọng trong thời niên thiếu, liệu tôi có thể thành tựu nó khi tôi lớn lên không?

Krishnamurti: Một tham vọng thời niên thiếu thường không kéo dài lắm, phải không? Một cậu bé nhỏ muốn làm một tài xế; hay cậu ấy thấy một chiếc máy bay phản lực bay thật nhanh qua bầu trời và muốn làm một phi công; hay cậu ấy nghe một nhà hùng biện chính trị nào đó và muốn giống ông ấy, hay cậu ấy thấy một vị khất sĩquyết định trở thành người đó. Một cô gái có lẽ muốn có nhiều con cái, hay làm vợ của một người đàn ông giàu có sống trong ngôi nhà to lớn, hay cô ấy thích vẽ hay làm thơ.
 
Bây giờ, liệu cái giấc mộng thời niên thiếu sẽ được thành tựu hay không? Và những giấc mộng đó có xứng đáng để thành tựu hay không? Tìm kiếm sự thành tựu của bất kỳ ham muốn, không đặt thành vấn đề nó là gì, luôn luôn mang lại đau khổ. Có lẽ bạn vẫn chưa nhận thấy việc này, nhưng bạn sẽ hiểu ra khi bạn lớn lên. Đau khổ là cái bóng của ham muốn. Nếu tôi muốn giàu có hay nổi tiếng, tôi tranh đấu đạt được mục đích của tôi, gạt những người khác qua một bên và tạo ra những kẻ thù; và, thậm chí tôi có thể có được cái gì tôi muốn, chẳng chóng thì chầy một cái gì đó luôn luôn xảy ra. Tôi bị bệnh, hay trong chính thành tựu của ham muốn tôi lại ao ước một cái gì đó nhiều hơn nữa; và luôn luôn có cái chết rình rập quanh góc đường. Tham vọng, ham muốnthành tựu hiển nhiên dẫn đến sự thất vọng, buồn khổ. Bạn có thể quan sát qui trình này cho chính bản thân bạn. Hãy học những người lớn tuổi hơn quanh bạn, những người nổi tiếng, những người vĩ đại ở địa phương, những người này đã dựng lên tên tuổi cho chính họ và có quyền hành. Hãy nhìn khuôn mặt của họ; hãy nhìn thử xem họ buồn bã như thế nào, hay béo phị và kênh kiệu làm sao đâu. Khuôn mặt của họ có những nếp nhăn xấu xí. Họ không nở hoa trong tốt lành bởi vì trong tâm hồn của họ có đau khổ.
 
Liệu không thể sống trong thế giới này mà không có tham vọng, chỉ là cái gì bạn là hay sao? Nếu bạn bắt đầu hiểu rõ bạn là gì mà không có sự cố gắng để thay đổi nó, vậy thì bạn là gì trải qua một chuyển đổi. Tôi nghĩ người ta có thể sống không là ai cả trong thế giới này, hoàn toàn không được biết đến, hoàn toàn không nổi tiếng, không tham vọng, không tàn nhẫn. Người ta có thể sống rất hạnh phúc khi không có sự quan trọng nào được trao cho cái tôi; và đây cũng là một phần của giáo dục đúng đắn.
 
Toàn thế giới này đang tôn sùng sự thành công. Bạn nghe những câu chuyện của cậu bé nghèo nàn học hành suốt đêm như thế nào và cuối cùng trở thành một quan tòa, hay cậu ấy bắt đầu bằng việc bán báo và trở thành một triệu phú như thế nào. Bạn được nhồi nhét sự vinh quang của thành công. Khi đạt được thành công to tát cũng kèm theo đau khổ lớn lao; nhưng hầu hết chúng ta đều bị trói buộc trong sự ham muốn thành tựu, và thành công có nhiều ý nghĩa cho chúng ta hơn là hiểu rõ và xóa sạch đau khổ.
Người hỏi: Trong hệ thống xã hội hiện nay liệu không khó khăn khi thực hiện điều gì ông đang nói hay sao?

Krishnamurti: Khi bạn cảm thấy mãnh liệt về một sự việc gì đó, bạn có thấy khó khăn khi đưa nó ra thực hiện hay không? Khi bạn thích chơi cricket, bạn chơi nó bằng toàn thân tâm của bạn, phải vậy không? Và bạn gọi nó là khó khăn à? Chỉ khi nào bạn không cảm thấy mãnh liệt sự thật của một điều gì đó thì bạn mới thấy khó khăn khi đưa ra thực hành. Bạn không yêu thích nó. Cái gì bạn yêu thích bạn làm đầy hăm hở, có hân hoan trong nó, và rồi điều gì xã hội hay cha mẹ chỉ trích cũng chẳng đặt thành vấn đề. Nhưng nếu bạn không tin chắc, nếu bạn không cảm thấy tự dohạnh phúc khi làm công việc gì bạn nghĩ là đúng, chắc chắn sự thích thú của bạn trong nó là giả dối, không thật; vì vậytrở thành nặng nề và bạn nói rằng đưa nó vào hành động thật khó khăn.
 
Trong khi làm cái gì bạn yêu thích dĩ nhiên sẽ có những khó khăn nhưng điều đó không đặt thành vấn đề cho bạn đâu, nó là một phần của cuộc sống. Bạn thấy không, chúng ta đã tạo ra một triết lý của sự khó khăn, chúng ta coi nó là một đức hạnh khi cố gắng, khi tranh đấu, khi đối chọi.
 
Tôi không đang nói về hiệu quả qua sự cố gắng và tranh đấu, nhưng nói về tình yêu khi đang làm một cái gì đó. Nhưng đừng chống chọi lại xã hội, đừng cản ngăn cái truyền thống đã chết rồi, nếu bạn không có tình yêu này trong bạn, thì việc tranh đấu của bạn trở thành vô nghĩa, và bạn chỉ tạo thêm nhiều tổn thương. Trái lại nếu bạn cảm thấy sâu sắc điều gì là đúng và vì vậy có thể đứng một mình, vậy thì hành động của bạn được sinh ra từ tình yêu sẽ có ý nghĩa lạ thường, nó có sức mạnh, vẻ đẹp.
 
Bạn biết không, chỉ với một cái trí rất yên lặng thì những sự việc lớn lao mới được sinh ra; và một cái trí yên lặng không có được qua nỗ lực, qua kiểm soát, qua kỷ luật.

Người hỏi: Ông có ý nói gì qua từ ngữ một thay đổi tổng thể, và làm thế nào có thể nhận ra được nó trong thân tâm riêng của người ta?

Krishnamurti: Bạn nghĩ rằng có thể có một thay đổi tổng thể nếu bạn cố gắng tạo ra nó hay sao? Bạn có biết thay đổi là gì không? Giả sử rằng bạn tham vọng và bạn đã bắt đầu thấy rằng tất cả những sự việc liên quan đến tham vọng: hy vọng, hài lòng, thất vọng, tàn nhẫn, đau khổ, dửng dưng, tham lam, ganh tị, gây ra sự thiếu vắng tình yêu. Thấy tất cả việc này rồi, bạn sẽ làm gì đây? Cố gắng thay đổi hay chuyển đổi tham vọng là một hình thức khác của tham vọng, phải vậy không? Nó ngụ ý một ham muốn là một cái gì khác. Bạn có lẽ khước từ một ham muốn, nhưng trong chính qui trình đó bạn nuôi dưỡng một ham muốn khác mà cũng gây ra đau khổ.
 
Bây giờ, nếu bạn hiểu rằng tham vọng mang lại đau khổ, và ham muốn chấm dứt tham vọng cũng mang lại đau khổ, nếu bạn hiểu được sự thật của việc này rất rõ ràng cho chính bạn và không hành động, nhưng cho phép sự thật hành động, vậy thì sự thật đó tạo ra một thay đổi cơ bản trong cái trí, một cách mạng tổng thể. Nhưng việc này đòi hỏi nhiều chú ý, thâm nhập, thấu triệt.
 
Khi bạn được người ta dạy bảo, như tất cả các bạn đều được dạy bảo, rằng bạn nên tốt lành, rằng bạn nên thương yêu, thông thường điều gì xảy ra? Bạn nói rằng, “Tôi phải luyện tập tốt lành, tôi phải thể hiện tình yêu với cha mẹ tôi, với người hầu, với con lừa, với mọi thứ.” Điều đó có nghĩa bạn đang tạo ra một nỗ lực để thể hiện tình yêu – và vì vậy “tình yêu” trở thành rất tầm thường, rất nhỏ nhoi, giống như những người theo chủ nghĩa quốc gia rất xuẩn ngốc và ngu dốt khi luôn luôn luyện tập tình huynh đệ. Chính tham lam mới sinh ra những luyện tập này. Nhưng nếu bạn hiểu sự thật của chủ nghĩa quốc gia, của tham lam, và cho phép sự thật đó tác động ngay vào bạn, cho phép sự thật đó hành động, vậy thì bạn sẽ có tình huynh đệ mà không cần nỗ lực. Một cái trí luyện tập tình yêu không thể nào thương yêu được. Nhưng nếu bạn thương yêu và không ngăn cản nó, vậy thì tình yêu sẽ vận hành.

Người hỏi: Thưa ông, tự bành trướng là gì?

Krishnamurti: Nếu bạn muốn trở thành một thống đốc hay một giáo sư nổi tiếng, nếu bạn bắt chước một người quan trọng hay vị anh hùng nào đó, nếu bạn cố gắng theo sau vị đạo sư của bạn hay một vị thánh, vậy thì qui trình của trở thành, của bắt chước, của theo sau đó là một hình thức của tự bành trướng, phải vậy không? Một con người tham vọng, một con người muốn vĩ đại, một con người muốn thỏa mãn cho chính mình có lẽ rằng, “Tôi đang làm việc này nhân danh hòa bình và vì lợi ích của quốc gia tôi”; nhưng hành động của anh ấy vẫn còn là sự bành trướng của chính anh ấy.

Người hỏi: Tại sao người giàu có lại kiêu hãnh?

Krishnamurti: Một cậu bé hỏi tại sao người giàu có lại kiêu hãnh. Bạn thực sự nhận ra rằng người giàu có kiêu hãnh hay sao? Và những người nghèo khổ không kiêu hãnh à? Tất cả chúng ta đều có sự kiêu hãnh riêng của chúng ta được thể hiện trong nhiều cách khác nhau. Người giàu có, người nghèo khổ, người có học thức, người có tài năng, vị thánh, người lãnh đạo – mỗi người trong cách riêng của anh ấy đều có cảm thấy rằng anh ấy đã thành đạt, rằng anh ấy là người thành công, rằng anh ấy là một người nào đó hay có thể làm được một việc gì đó. Nhưng cái người không là ai cả, không muốn là một người nào đó, chỉ là chính anh ấy – một con người như thế được tự do khỏi kiêu hãnh, tự phụ.

Người hỏi: Tại sao chúng tôi lại luôn luôn bị trói buộc trong “cái tôi lệ thuộc” và “cái thuộc về tôi,” và tại sao chúng tôi lại cứ duy trì những cuộc gặp gỡ của chúng tôi với ông bằng những vấn đề do trạng thái của cái trí này sinh ra?
Krishnamurti: Bạn thực sự muốn biết, hay có một ai đó nhắc bạn hỏi câu hỏi này? Vấn đề của “cái tôi lệ thuộc” và “cái thuộc về tôi” là một vấn đề mà trong đó chúng ta đều liên quan. Đó thực sự là một vấn đề duy nhấtchúng ta có, và chúng ta liên tục nói về nó bằng nhiều cách khác, thỉnh thoảng trong chủ đề về thành tựuthỉnh thoảng trong chủ đề về thất vọng, đau khổ. Ham muốnhạnh phúc vĩnh cửu, sợ hãi chết hay mất mát tài sản, vui thú được nịnh nọt, bực bội khi bị chỉ trích, cãi cọ về Chúa của bạn và Chúa của tôi, cách sống của tôi và cách sống của bạn – cái trí liên tục bị bận rộn với tất cả việc này và không còn gì thêm nữa. Nó có lẽ giả vờ tìm kiếm hoà bình, cảm thấy tình huynh đệ, sống tốt lành, thương yêu, nhưng phía sau bức màn của những từ ngữ này nó tiếp tục bị trói buộc trong sự xung đột của “cái tôi lệ thuộc” và “cái thuộc về tôi”, và đó là lý do tại sao nó tạo ra những vấn đề mà bạn đưa ra mỗi buổi sáng bằng những từ ngữ khác nhau.

Người hỏi: Tại sao phụ nữ thích ăn mặc chưng diện như thế?

Krishnamurti: Bạn không hỏi họ à? Và bạn không bao giờ nhìn ngắm những con chim hay sao? Thường thường những con chim trống mới có nhiều mầu sắc hơn, nhiều sinh động hơn. Thu hút ở khía cạnh thân thểthành phần của dục tình để sinh ra những mầm non. Đó là cuộc sống. Và những cậu trai cũng làm việc đó. Khi các em lớn lên các em thích chải tóc theo một kiểu đặc biệt, đội một cái mũ xinh xinh, mặc quần áo quyến rũ – mà là cùng sự việc. Tất cả chúng ta đều muốn phô trương. Người giàu có trong chiếc xe hơi đắt tiền của anh ấy, người con gái trang điểm cho mình đẹp hơn, cậu con trai cố gắng trở thành rất thông minh – tất cả họ đều muốn khoe khoang rằng họ có một cái gì đó. Nó là một thế giới lạ lùng, phải không? Bạn thấy không, một bông huệ tây hay một đóa hồng không bao giờ giả vờ, và vẻ đẹp của nó là rằng nó là cái gì nó là.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22460)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16112)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15083)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 19095)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14530)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18700)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14499)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13685)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11913)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13337)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13729)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 14017)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13318)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15095)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16243)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11156)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16520)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 12013)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17688)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12936)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13767)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12934)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14929)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16471)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13221)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12166)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12864)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12988)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12853)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14265)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14192)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16580)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12434)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14455)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11407)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11107)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13258)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13958)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13252)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13069)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13570)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12812)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10310)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 14049)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10282)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13774)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16340)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12057)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13052)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11718)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12744)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10890)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11059)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 11019)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11962)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12865)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11153)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12681)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11415)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant