Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20-Sống đời sống tôn giáonhạy cảm đến thực tại

28 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8829)
20-Sống đời sống tôn giáo là nhạy cảm đến thực tại

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Things by Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 20
Sống đời sống tôn giáonhạy cảm đến thực tại

 Cánh đồng xanh đó với những bông hoa vàng sậm và một dòng suối đang chảy qua là một cảnh dễ thương khi nhìn ngắm, phải vậy không? Chiều hôm qua tôi đang nhìn ngắm nó, và khi thấy được vẻ đẹp và sự yên lặng tuyệt vời của vùng quê người ta luôn luôn tự hỏi cái gì là vẻ đẹp. Có một phản ứng ngay lập tức đến cái đẹp đẽ và cũng đến cái xấu xí, phản ứng của vui thú hay của đau khổ, và chúng ta diễn tả cảm thấy đó thành từ ngữ khi nói rằng, “Cái này đẹp” hay “Cái này xấu.” Nhưng điều gì cần chú ý không là vui thú hay đau khổ; trái lại nó là hiệp thông cùng mọi thứ, nhạy cảm đến cả xấu xí lẫn đẹp đẽ.
 
Bây giờ, vẻ đẹp là gì? Đây là một trong những câu hỏi căn bản nhất, nó không hời hợt, vì vậy đừng gạt nó đi. Hiểu rõ vẻ đẹp là gì, có ý thức của tốt lành đó mà thể hiện khi cái trí và tâm hồn hiệp thông cùng một thứ gì đó dễ thương và không có bất kỳ ngáng trở để cho người ta cảm thấy hoàn toàn thoải máichắc chắn rằng, điều này có ý nghĩa lớn lao trong cuộc sống; và chỉ cho đến khi chúng ta cảm thấy được trạng thái đáp lại đến vẻ đẹp này thì cuộc sống của chúng ta mới không còn nông cạn. Người ta có lẽ được vây quanh bởi vẻ đẹp lớn lao, bởi núi non và những cánh đồng và những dòng sông, nhưng nếu người ta không sinh động với tất cả người ta có lẽ đã chết rồi.
 
Bạn, những cô gái và những cậu trai và những người lớn hơn chỉ cần đặt cho mình câu hỏi này: vẻ đẹp là gì? Sạch sẽ, ăn mặc gọn gàng, một nụ cười, một cử chỉ duyên dáng, nhịp nhàng khi bước đi, một bông hoa trên mái tóc của bạn, cách cư xử tốt, nói năng rõ ràng, đầy ý tứ, ân cần với những người khác, mà gồm cả sự đúng giờ – tất cả việc này là một phần của vẻ đẹp; nhưng nó chỉ ở trên bề mặt, phải vậy không? Và đó là tất cả đối với vẻ đẹp, hay còn có một cái gì đó sâu xa hơn.
 
Có vẻ đẹp của hình dáng, vẻ đẹp của sắp xếp, vẻ đẹp của cuộc sống. Bạn có khi nào quan sát hình dáng dễ thương của một cái cây khi nó um tùm lá, hay sự tinh tế lạ thường của một cái cây trơ trụi đứng tương phản với bầu trời hay không? Những cảnh như thế đó đầy vẻ đẹp khi nhìn ngắm, nhưng tất cả chúng là những diễn tả hời hợt của một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Vì vậy chúng ta định nghĩa vẻ đẹp là gì?
 
Bạn có lẽ có một khuôn mặt đẹp, một nét mặt sáng sủa rõ ràng, bạn có lẽ ăn mặc thời trang và có cách cư xử chải chuốt, bạn có lẽ vẽ đẹp hoặc viết hay về vẻ đẹp của phong cảnh, nhưng nếu khôngý thức bên trong của tốt lành thì tất cả những diễn tả bên ngoài của vẻ đẹp chỉ dẫn đến một cuộc sống rất hời hợt, giả tạo, một cuộc sống không có nhiều ý nghĩa
 
Vì vậy chúng ta phải hiểu được vẻ đẹp thực sự là gì, phải vậy không? Bạn làm ơn lưu ý, tôi không đang nói rằng chúng ta nên tránh những thể hiện bên ngoài của vẻ đẹp. Tất cả chúng ta đều phải có sự cư xử đúng đắn, chúng ta phải giữ gìn thân thể sạch sẽ và ăn mặc đàng hoàng, mà không phô trương quá, chúng ta phải đúng giờ, rõ ràng trong lời nói của chúng ta, và mọi chuyện như thế. Những sự việc này là cần thiếtchúng ta tạo ra một bầu không khí dễ chịu; nhưng nó không có nhiều ý nghĩa trong chính nó. 
 
Chính vẻ đẹp bên trong mới mang lại nét duyên dáng, sự nhã nhặn lạ thường cho hình dáng và điệu bộ bên ngoài. Và vẻ đẹp bên trong này là gì mà nếu không có nó cuộc sống của người ta sẽ rất nông cạn? Bạn có bao giờ suy nghĩ điều đó hay không? Có thể là không. Bạn quá bận rộn, cái trí của bạn quá bận rộn bởi công việc học hành, bởi chơi đùa, bởi chuyện trò, cười cợt và chọc ghẹo nhau. Nhưng giúp đỡ bạn khám phá cái gì là vẻ đẹp bên trong, mà nếu không có nó hình dáng điệu bộ bên ngoài chẳng có ý nghĩa bao nhiêu, là một trong những chức năng của giáo dục đúng đắn; và sự trân trọng sâu xa về vẻ đẹp là một phần thiết yếu trong cuộc sống riêng của bạn.
 
Liệu một cái trí nông cạn có thể nào trân trọng vẻ đẹp hay không? Nó có lẽ nói về vẻ đẹp; nhưng liệu nó có thể trải nghiệm sự tràn trề của hân hoan vô tận này khi nhìn ngắm một cái gì đó rất dễ thương hay không? Khi cái trí chỉ quan tâm đến chính nó và những hoạt động riêng của nó, nó không đẹp đẽ; dù nó làm gì chăng nữa, nó vẫn còn xấu xa, bị giới hạn, vì vậy nó không có khả năng nhận biết vẻ đẹp là gì. Trái lại, một cái trí không quan tâm đến chính nó, một cái trí được tự do khỏi tham vọng, một cái trí không bị trói buộc trong những ham muốn riêng của nó hay là bị thúc đẩy bởi sự theo đuổi thành công riêng của nó – một cái trí như thế rất khoáng đạt, và nó nở hoa trong tốt lành. Bạn hiểu không? Chính tốt lành bên trong này mới mang lại vẻ đẹp, thậm chí cho cả một khuôn mặt tạm gọi là xấu xí. Khi có tốt lành bên trong, khuôn mặt xấu xí được chuyển đổi, vì tốt lành bên trong thực sự là trạng thái cảm thấy rất sâu sắc của tôn giáo.
 
Bạn có biết sống đời sống tôn giáo là gì không? Nó không liên quan gì đến tiếng chuông của đền chùa, mặc dù chúng ta nghe hay hay từ khoảng cách xa, cũng không liên quan gì đến nghi lễ, và cũng chẳng liên quan gì đến những buổi lễ của những vị giáo sĩ và tất cả những vô lý của nghi thức đó. Sống đời sống tôn giáo là sống nhạy cảm đến thực tại. Toàn thân tâm bạn – thân thể, cái trí và tâm hồnnhạy cảm đến đẹp đẽ và đến xấu xí, đến con lừa bị trói vào cái cột, đến sự nghèo đói và bẩn thỉu trong thị trấn này, đến tiếng cười và những giọt nước mắt, đến mọi thứ quanh bạn. Từ nhạy cảm đến toàn thể hiện hữu này nẩy mầm tốt lành, tình yêu; và nếu khôngnhạy cảm này không có vẻ đẹp, mặc dù bạn có lẽ có tài năng, bạn có lẽ ăn mặc rất tươm tất, đi những chiếc xe đắt tiền và ý tứ đến từng chi tiết nhỏ nhặt.
 
Tình yêu là một cái gì đó lạ thường lắm, phải vậy không? Bạn không thể thương yêu nếu bạn đang suy nghĩ về chính mình – mà không có nghĩa rằng bạn phải suy nghĩ về một người khác. Tình yêu là, nó không có mục tiêu. Thực ra cái trí thương yêu là một cái trí tôn giáo bởi vì nó ở trong chuyển động của thực tại, của sự thật, của Chúa, và chỉ một cái trí như thế mới biết được vẻ đẹp là gì. Cái trí không bị trói buộc trong bất kỳ triết lý nào, không bị vây bủa trong bất kỳ hệ thống hay niềm tin nào, không bị lay động bởi tham vọng riêng của nó và vì vậy nhạy cảm, tỉnh táo, canh chừng – cái trí như thế có vẻ đẹp.
 
Khi còn bé bạn rất cần học cách sống ngăn nắp và sạch sẽ, ngồi đàng hoàng mà không cử động liên tục, có tư thế nghiêm chỉnh khi ngồi tại bàn và ân cần, ý tứ, đúng giờ; nhưng tất cả những sự việc này, dù cần thiết bao nhiêu chăng nữa, đều là hời hợt, và nếu bạn chỉ vun quén những điều hời hợt mà không hiểu rõ sự việc sâu xa hơn, bạn sẽ không bao giờ biết được ý nghĩa thực sự của vẻ đẹp. Một cái trí không lệ thuộc vào bất kỳ quốc gia, nhóm người hay tổ chức nào, không có uy quyền, không bị thúc đẩy bởi tham vọng hay bị giam giữ bởi sợ hãi – một cái trí như thế luôn luôn đang nở hoa trong tình yêu và tốt lành. Bởi vì nó ở trong chuyển động của thực tại, nó biết vẻ đẹp là gì; nhạy cảm đến cả xấu xíđẹp đẽ, nó là một cái trí sáng tạo, nó có hiểu biết không giới hạn.

Người hỏi: Nếu tôi có tham vọng trong thời niên thiếu, liệu tôi có thể thành tựu nó khi tôi lớn lên không?

Krishnamurti: Một tham vọng thời niên thiếu thường không kéo dài lắm, phải không? Một cậu bé nhỏ muốn làm một tài xế; hay cậu ấy thấy một chiếc máy bay phản lực bay thật nhanh qua bầu trời và muốn làm một phi công; hay cậu ấy nghe một nhà hùng biện chính trị nào đó và muốn giống ông ấy, hay cậu ấy thấy một vị khất sĩquyết định trở thành người đó. Một cô gái có lẽ muốn có nhiều con cái, hay làm vợ của một người đàn ông giàu có sống trong ngôi nhà to lớn, hay cô ấy thích vẽ hay làm thơ.
 
Bây giờ, liệu cái giấc mộng thời niên thiếu sẽ được thành tựu hay không? Và những giấc mộng đó có xứng đáng để thành tựu hay không? Tìm kiếm sự thành tựu của bất kỳ ham muốn, không đặt thành vấn đề nó là gì, luôn luôn mang lại đau khổ. Có lẽ bạn vẫn chưa nhận thấy việc này, nhưng bạn sẽ hiểu ra khi bạn lớn lên. Đau khổ là cái bóng của ham muốn. Nếu tôi muốn giàu có hay nổi tiếng, tôi tranh đấu đạt được mục đích của tôi, gạt những người khác qua một bên và tạo ra những kẻ thù; và, thậm chí tôi có thể có được cái gì tôi muốn, chẳng chóng thì chầy một cái gì đó luôn luôn xảy ra. Tôi bị bệnh, hay trong chính thành tựu của ham muốn tôi lại ao ước một cái gì đó nhiều hơn nữa; và luôn luôn có cái chết rình rập quanh góc đường. Tham vọng, ham muốnthành tựu hiển nhiên dẫn đến sự thất vọng, buồn khổ. Bạn có thể quan sát qui trình này cho chính bản thân bạn. Hãy học những người lớn tuổi hơn quanh bạn, những người nổi tiếng, những người vĩ đại ở địa phương, những người này đã dựng lên tên tuổi cho chính họ và có quyền hành. Hãy nhìn khuôn mặt của họ; hãy nhìn thử xem họ buồn bã như thế nào, hay béo phị và kênh kiệu làm sao đâu. Khuôn mặt của họ có những nếp nhăn xấu xí. Họ không nở hoa trong tốt lành bởi vì trong tâm hồn của họ có đau khổ.
 
Liệu không thể sống trong thế giới này mà không có tham vọng, chỉ là cái gì bạn là hay sao? Nếu bạn bắt đầu hiểu rõ bạn là gì mà không có sự cố gắng để thay đổi nó, vậy thì bạn là gì trải qua một chuyển đổi. Tôi nghĩ người ta có thể sống không là ai cả trong thế giới này, hoàn toàn không được biết đến, hoàn toàn không nổi tiếng, không tham vọng, không tàn nhẫn. Người ta có thể sống rất hạnh phúc khi không có sự quan trọng nào được trao cho cái tôi; và đây cũng là một phần của giáo dục đúng đắn.
 
Toàn thế giới này đang tôn sùng sự thành công. Bạn nghe những câu chuyện của cậu bé nghèo nàn học hành suốt đêm như thế nào và cuối cùng trở thành một quan tòa, hay cậu ấy bắt đầu bằng việc bán báo và trở thành một triệu phú như thế nào. Bạn được nhồi nhét sự vinh quang của thành công. Khi đạt được thành công to tát cũng kèm theo đau khổ lớn lao; nhưng hầu hết chúng ta đều bị trói buộc trong sự ham muốn thành tựu, và thành công có nhiều ý nghĩa cho chúng ta hơn là hiểu rõ và xóa sạch đau khổ.
Người hỏi: Trong hệ thống xã hội hiện nay liệu không khó khăn khi thực hiện điều gì ông đang nói hay sao?

Krishnamurti: Khi bạn cảm thấy mãnh liệt về một sự việc gì đó, bạn có thấy khó khăn khi đưa nó ra thực hiện hay không? Khi bạn thích chơi cricket, bạn chơi nó bằng toàn thân tâm của bạn, phải vậy không? Và bạn gọi nó là khó khăn à? Chỉ khi nào bạn không cảm thấy mãnh liệt sự thật của một điều gì đó thì bạn mới thấy khó khăn khi đưa ra thực hành. Bạn không yêu thích nó. Cái gì bạn yêu thích bạn làm đầy hăm hở, có hân hoan trong nó, và rồi điều gì xã hội hay cha mẹ chỉ trích cũng chẳng đặt thành vấn đề. Nhưng nếu bạn không tin chắc, nếu bạn không cảm thấy tự dohạnh phúc khi làm công việc gì bạn nghĩ là đúng, chắc chắn sự thích thú của bạn trong nó là giả dối, không thật; vì vậytrở thành nặng nề và bạn nói rằng đưa nó vào hành động thật khó khăn.
 
Trong khi làm cái gì bạn yêu thích dĩ nhiên sẽ có những khó khăn nhưng điều đó không đặt thành vấn đề cho bạn đâu, nó là một phần của cuộc sống. Bạn thấy không, chúng ta đã tạo ra một triết lý của sự khó khăn, chúng ta coi nó là một đức hạnh khi cố gắng, khi tranh đấu, khi đối chọi.
 
Tôi không đang nói về hiệu quả qua sự cố gắng và tranh đấu, nhưng nói về tình yêu khi đang làm một cái gì đó. Nhưng đừng chống chọi lại xã hội, đừng cản ngăn cái truyền thống đã chết rồi, nếu bạn không có tình yêu này trong bạn, thì việc tranh đấu của bạn trở thành vô nghĩa, và bạn chỉ tạo thêm nhiều tổn thương. Trái lại nếu bạn cảm thấy sâu sắc điều gì là đúng và vì vậy có thể đứng một mình, vậy thì hành động của bạn được sinh ra từ tình yêu sẽ có ý nghĩa lạ thường, nó có sức mạnh, vẻ đẹp.
 
Bạn biết không, chỉ với một cái trí rất yên lặng thì những sự việc lớn lao mới được sinh ra; và một cái trí yên lặng không có được qua nỗ lực, qua kiểm soát, qua kỷ luật.

Người hỏi: Ông có ý nói gì qua từ ngữ một thay đổi tổng thể, và làm thế nào có thể nhận ra được nó trong thân tâm riêng của người ta?

Krishnamurti: Bạn nghĩ rằng có thể có một thay đổi tổng thể nếu bạn cố gắng tạo ra nó hay sao? Bạn có biết thay đổi là gì không? Giả sử rằng bạn tham vọng và bạn đã bắt đầu thấy rằng tất cả những sự việc liên quan đến tham vọng: hy vọng, hài lòng, thất vọng, tàn nhẫn, đau khổ, dửng dưng, tham lam, ganh tị, gây ra sự thiếu vắng tình yêu. Thấy tất cả việc này rồi, bạn sẽ làm gì đây? Cố gắng thay đổi hay chuyển đổi tham vọng là một hình thức khác của tham vọng, phải vậy không? Nó ngụ ý một ham muốn là một cái gì khác. Bạn có lẽ khước từ một ham muốn, nhưng trong chính qui trình đó bạn nuôi dưỡng một ham muốn khác mà cũng gây ra đau khổ.
 
Bây giờ, nếu bạn hiểu rằng tham vọng mang lại đau khổ, và ham muốn chấm dứt tham vọng cũng mang lại đau khổ, nếu bạn hiểu được sự thật của việc này rất rõ ràng cho chính bạn và không hành động, nhưng cho phép sự thật hành động, vậy thì sự thật đó tạo ra một thay đổi cơ bản trong cái trí, một cách mạng tổng thể. Nhưng việc này đòi hỏi nhiều chú ý, thâm nhập, thấu triệt.
 
Khi bạn được người ta dạy bảo, như tất cả các bạn đều được dạy bảo, rằng bạn nên tốt lành, rằng bạn nên thương yêu, thông thường điều gì xảy ra? Bạn nói rằng, “Tôi phải luyện tập tốt lành, tôi phải thể hiện tình yêu với cha mẹ tôi, với người hầu, với con lừa, với mọi thứ.” Điều đó có nghĩa bạn đang tạo ra một nỗ lực để thể hiện tình yêu – và vì vậy “tình yêu” trở thành rất tầm thường, rất nhỏ nhoi, giống như những người theo chủ nghĩa quốc gia rất xuẩn ngốc và ngu dốt khi luôn luôn luyện tập tình huynh đệ. Chính tham lam mới sinh ra những luyện tập này. Nhưng nếu bạn hiểu sự thật của chủ nghĩa quốc gia, của tham lam, và cho phép sự thật đó tác động ngay vào bạn, cho phép sự thật đó hành động, vậy thì bạn sẽ có tình huynh đệ mà không cần nỗ lực. Một cái trí luyện tập tình yêu không thể nào thương yêu được. Nhưng nếu bạn thương yêu và không ngăn cản nó, vậy thì tình yêu sẽ vận hành.

Người hỏi: Thưa ông, tự bành trướng là gì?

Krishnamurti: Nếu bạn muốn trở thành một thống đốc hay một giáo sư nổi tiếng, nếu bạn bắt chước một người quan trọng hay vị anh hùng nào đó, nếu bạn cố gắng theo sau vị đạo sư của bạn hay một vị thánh, vậy thì qui trình của trở thành, của bắt chước, của theo sau đó là một hình thức của tự bành trướng, phải vậy không? Một con người tham vọng, một con người muốn vĩ đại, một con người muốn thỏa mãn cho chính mình có lẽ rằng, “Tôi đang làm việc này nhân danh hòa bình và vì lợi ích của quốc gia tôi”; nhưng hành động của anh ấy vẫn còn là sự bành trướng của chính anh ấy.

Người hỏi: Tại sao người giàu có lại kiêu hãnh?

Krishnamurti: Một cậu bé hỏi tại sao người giàu có lại kiêu hãnh. Bạn thực sự nhận ra rằng người giàu có kiêu hãnh hay sao? Và những người nghèo khổ không kiêu hãnh à? Tất cả chúng ta đều có sự kiêu hãnh riêng của chúng ta được thể hiện trong nhiều cách khác nhau. Người giàu có, người nghèo khổ, người có học thức, người có tài năng, vị thánh, người lãnh đạo – mỗi người trong cách riêng của anh ấy đều có cảm thấy rằng anh ấy đã thành đạt, rằng anh ấy là người thành công, rằng anh ấy là một người nào đó hay có thể làm được một việc gì đó. Nhưng cái người không là ai cả, không muốn là một người nào đó, chỉ là chính anh ấy – một con người như thế được tự do khỏi kiêu hãnh, tự phụ.

Người hỏi: Tại sao chúng tôi lại luôn luôn bị trói buộc trong “cái tôi lệ thuộc” và “cái thuộc về tôi,” và tại sao chúng tôi lại cứ duy trì những cuộc gặp gỡ của chúng tôi với ông bằng những vấn đề do trạng thái của cái trí này sinh ra?
Krishnamurti: Bạn thực sự muốn biết, hay có một ai đó nhắc bạn hỏi câu hỏi này? Vấn đề của “cái tôi lệ thuộc” và “cái thuộc về tôi” là một vấn đề mà trong đó chúng ta đều liên quan. Đó thực sự là một vấn đề duy nhấtchúng ta có, và chúng ta liên tục nói về nó bằng nhiều cách khác, thỉnh thoảng trong chủ đề về thành tựuthỉnh thoảng trong chủ đề về thất vọng, đau khổ. Ham muốnhạnh phúc vĩnh cửu, sợ hãi chết hay mất mát tài sản, vui thú được nịnh nọt, bực bội khi bị chỉ trích, cãi cọ về Chúa của bạn và Chúa của tôi, cách sống của tôi và cách sống của bạn – cái trí liên tục bị bận rộn với tất cả việc này và không còn gì thêm nữa. Nó có lẽ giả vờ tìm kiếm hoà bình, cảm thấy tình huynh đệ, sống tốt lành, thương yêu, nhưng phía sau bức màn của những từ ngữ này nó tiếp tục bị trói buộc trong sự xung đột của “cái tôi lệ thuộc” và “cái thuộc về tôi”, và đó là lý do tại sao nó tạo ra những vấn đề mà bạn đưa ra mỗi buổi sáng bằng những từ ngữ khác nhau.

Người hỏi: Tại sao phụ nữ thích ăn mặc chưng diện như thế?

Krishnamurti: Bạn không hỏi họ à? Và bạn không bao giờ nhìn ngắm những con chim hay sao? Thường thường những con chim trống mới có nhiều mầu sắc hơn, nhiều sinh động hơn. Thu hút ở khía cạnh thân thểthành phần của dục tình để sinh ra những mầm non. Đó là cuộc sống. Và những cậu trai cũng làm việc đó. Khi các em lớn lên các em thích chải tóc theo một kiểu đặc biệt, đội một cái mũ xinh xinh, mặc quần áo quyến rũ – mà là cùng sự việc. Tất cả chúng ta đều muốn phô trương. Người giàu có trong chiếc xe hơi đắt tiền của anh ấy, người con gái trang điểm cho mình đẹp hơn, cậu con trai cố gắng trở thành rất thông minh – tất cả họ đều muốn khoe khoang rằng họ có một cái gì đó. Nó là một thế giới lạ lùng, phải không? Bạn thấy không, một bông huệ tây hay một đóa hồng không bao giờ giả vờ, và vẻ đẹp của nó là rằng nó là cái gì nó là.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11705)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12023)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11169)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11410)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12131)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12619)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10841)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18070)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11791)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10016)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10234)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12425)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15426)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11297)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14412)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12178)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15461)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12075)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12483)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11263)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12145)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10685)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12604)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13248)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14933)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12768)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16659)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19754)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13190)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12746)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12353)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11939)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10992)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13602)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12019)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11928)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11707)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12822)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14610)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12685)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15755)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13696)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12979)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9946)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18091)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11245)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9129)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12259)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13120)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10358)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12257)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15414)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16683)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12307)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11579)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14354)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19796)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14231)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24717)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10746)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant