Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

22-Tánh đơn giản của tình yêu

28 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8023)
22-Tánh đơn giản của tình yêu

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Things by Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 22
Tánh đơn giản của tình yêu

 Một người trong cái áo choàng khất sĩ thường đến mỗi buổi sáng để hái những bông hoa nơi những cái cây trong một ngôi vườn kề bên. Bàn tay và đôi mắt ông ấy tham lam tìm những bông hoa, và ông ta hái mọi bông hoa trong tầm với. Hiển nhiên ông ta đang cố gắng dâng cúng những bông hoa cho những hình ảnh chết nào đó, một vật được làm bằng đá. Những bông hoa là những vật mềm mại, xinh xắn vừa nở dưới ánh ban mai, và ông ấy không hái nó nhẹ nhàng, nhưng giật phăng chúng ra, hung bạo tước đoạt khỏi ngôi vườn cái gì nó có. Vị thần của ông ta đòi hỏi nhiều bông hoa – nhiều vật đang sống cho một hình ảnh bằng đá không có sinh khí.

Vào một ngày khác tôi quan sát những cậu trai trẻ đang hái những bông hoa. Chúng sẽ không dâng những bông hoa này cho bất kỳ vị thần nào; chúng đang nói chuyện và cẩu thả xé nát những bông hoa, rồi quăng đi. Bạn có khi nào quan sát chính mình đang làm việc này hay không? Tôi thắc mắc tại sao bạn lại làm việc đó? Khi đi dọc theo con đường bạn sẽ bẻ một cành cây, tước hết những chiếc lá và vất nó đi. Bạn không thấy cái hành động vô ý thức này nơi bạn hay sao? Những người lớn tuổi cũng làm việc này nữa, họ có cách riêng để bộc lộ sự hung dữ bên trong của họ, tánh thiếu tôn trọng ghê tởm này cho những sự vật đang sống. Họ nói về không gây tổn hại, nhưng mọi thứ họ làm đều là hủy hoại.

Người ta có thể hiểu được hành động hái một hay hai bông hoa để gài lên mái tóc bạn, hay tặng cho ai đó khi bày tỏ tình yêu; nhưng sao bạn lại xé nát những bông hoa như thế? Những người lớn tuổi xấu xa trong tham vọng của họ, họ tàn sát nhau trong những cuộc chiến tranh và làm hư hỏng nhau bằng tiền bạc. Họ có những cách thể hiện riêng của hành động ghê tởm; và rõ ràng những người trẻ ở đây cũng như những nơi nào khác đều đang theo cùng bước chân của họ.

Vào một ngày khác, tôi đang đi dạo bên ngoài với một bé trai và chúng tôi gặp một hòn đá trên đường. Khi tôi nhặt nó ném đi, cậu ta hỏi, “Tại sao ông làm việc đó?” Việc này nói lên điều gì? Đó không là thiếu ân cần, kính trọng hay sao? Bạn thể hiện sự kính trọngsợ hãi, phải vậy không? Bạn lập tức nhổm dậy khi một người lớn đi vào phòng, nhưng đó không là kính trọng, đó là sợ hãi; bởi vì nếu bạn cảm thấy thực sự kính trọng bạn sẽ không bao giờ ngắt những bông hoa, bạn sẽ nhặt hòn đá khỏi con đường, bạn sẽ chăm sóc cây cối và giúp trông nom ngôi vườn. Nhưng, dù chúng ta đã già hay còn trẻ, chúng ta thực sự không có cảm giác ân cần tử tế này. Tại sao vậy? Đó có phải bởi vì chúng ta không biết tình yêu là gì hay không?

 Bạn có hiểu tình yêu đơn giản là gì hay không? Không phải sự phức tạp của tình yêu dục tình, cũng không phải tình yêu Chúa, nhưng chỉ thương yêu, nhạy cảm, hòa nhã trong sự tiếp xúc trọn vẹn cùng mọi sự vật của một người. Ở nhà luôn luôn bạn không có được tình yêu đơn giản này, cha mẹ bạn quá bận rộn; ở nhà có lẽ không có thương yêu thực sự, không có sự hòa nhã, vì vậy bạn đến đây với nền tảng của vô cảm và bạn cư xử giống như mọi người khác. Và làm thế nào người ta có nhạy cảm này được? Không phải rằng bạn phải có những nội qui cấm hái những bông hoa; vì khi chỉ kềm hãm bởi những nội qui, bạn có sợ hãi. Nhưng làm thế nào nhạy cảm này hiện diện để làm cho bạn tỉnh táo không gây bất kỳ tổn hại nào cho con người, cho thú vật, cho những bông hoa? 

Bạn có quan tâm tất cả việc này không? Bạn nên như thế. Nếu bạn không thích có nhạy cảm, bạn có lẽ đã chết rồi – và hầu hết mọi người đều giống vậy. Mặc dù họ ăn ngày ba bữa, có việc làm, sinh sản con cái, lái những chiếc xe hơi, mặc quần áo đẹp, hầu hết mọi người đều đã chết rồi.

Bạn có biết nhạy cảm là gì hay không? Chắc chắn, nó có nghĩa là có một cảm thấy trìu mến cho mọi thứ; trông thấy một con thú đang đau đớn và làm một việc gì đó cho nó, nhặt một viên đá khỏi lối đi bởi vì nhiều bàn chân trần đi qua đó, lượm một cái đinh trên đường bởi vì chiếc xe của ai đó có lẽ sẽ bị thủng lốp. Nhạy cảmcảm thấy cho con người, cho những con chim, cho những bông hoa, cho cây cối – không phải bởi vì chúng là của bạn, nhưng chỉ vì bạn tỉnh thức được vẻ đẹp lạ thường của những sự vật. Và làm thế nào có được tánh nhạy cảm này?

Khoảnh khắc bạn nhạy cảm sâu sắc tự nhiên bạn không ngắt những bông hoa; ngay lúc đó có một khao khát không hủy diệt mọi thứ, không gây tổn thương mọi người, mà có nghĩa rằng có sự kính trọng, tình yêu thực sự. Thương yêu là sự việc quan trọng nhất trong cuộc sống. Nhưng chúng ta có ý nói gì qua từ ngữ thương yêu? Khi bạn thương yêu một ai đó, bởi vì người đó thương yêu lại bạn, chắc chắn rằng đó không là tình yêu. Thương yêu là có cảm thấy lạ thường của tình yêu đó mà không đòi hỏi đáp lại bất kỳ cái gì. Bạn có lẽ rất khôn ngoan, bạn có lẽ đậu tất cả những kỳ thi, có bằng tiến sĩđạt được một chức vụ cao, nhưng nếu bạn không có nhạy cảm này, cảm thấy của tình yêu đơn giản này, tâm hồn của bạn sẽ trống rỗng và bạn sẽ đau khổ suốt cuộc đời còn lại của bạn.

Vì vậy rất quan trọng cho tâm hồn được ngập tràn ý thức thương yêu này, vì lúc đó bạn sẽ không hủy hoại, bạn sẽ không thô lỗ, và sẽ không còn những cuộc chiến tranh nữa. Vậy thì bạn sẽ là những con người hạnh phúc; và bởi vì bạn hạnh phúc nên bạn sẽ không cần cầu nguyện, bạn sẽ không cần tìm kiếm Chúa, bởi vì chính hạnh phúc đó là Chúa rồi.

Bây giờ, làm thế nào tình yêu này hiện hữu được? Chắc chắn tình yêu phải bắt đầu từ người giáo dục, người giáo viên. Nếu, ngoài việc truyền đạt cho bạn những thông tin về toán học, địa lý hay lịch sử, người giáo viên có cảm thấy của tình yêu này trong tâm hồn ông ấy và nói về nó; nếu lúc đó ông ấy lượm viên đá khỏi con đường và không để cho người hầu làm tất cả những việc dơ bẩn; nếu trong khi chuyện trò, trong khi làm việc, trong khi chơi đùa, trong khi ăn uống, trong khi ông ấy ở với bạn hay ở một mình, ông ấy cảm thấy sự việc lạ lùng này và thường xuyên chỉ rõ nó cho bạn, rồi thì bạn cũng sẽ biết thương yêu là gì. 

Bạn có lẽ có một làn da sáng, một khuôn mặt đẹp, bạn có lẽ mặc một áo sari dễ thương hay là một vận động viên vĩ đại, nhưng nếu không có tình yêu trong tâm hồn của bạn, bạn là một con người xấu xa, sự xấu xa vượt ngoài đo lường; và khi bạn thương yêu, dù rằng khuôn mặt bạn xấu xí hay đẹp đẽ, nó là một tỏa sáng. Thương yêu là sự việc lớn lao nhất trong cuộc sống; và rất quan trọng để nói về tình yêu, cảm thấy nó, nuôi dưỡng nó, ôm ấp nó, nếu không chẳng mấy chốc nó sẽ biến mất vì thế giới này rất tàn bạo. Nếu khi còn nhỏ bạn không biết thương yêu, nếu bạn không dùng tình yêu khi quan sát con người, những con thú, những bông hoa, khi bạn lớn lên bạn sẽ phát giác rằng cuộc sống của bạn sẽ trống rỗng; bạn sẽ rất cô độc, và những bóng đen của sợ hãi sẽ luôn luôn kề kề bên bạn. Nhưng khoảnh khắc bạn có trong tâm hồn của bạn cái sự việc lạ thường này được gọi là tình yêu và cảm thấy chiều sâu, hoan lạc, ngây ngất của nó, bạn sẽ khám phá cho chính mình rằng thế giới được thay đổi.

Người hỏi: Tại sao luôn luôn có quá nhiều người giàu có và quan trọng được mời vào những chức vụ của trường học?

Krishnamurti: Bạn nghĩ gì? Bạn không muốn cha của bạn là người quan trọng hay sao? Bạn không tự hào nếu ông ấy trở thành một thành viên của nghị viện và được đề cập trên báo chí hay sao? Nếu ông ấy đưa bạn đến sống trong một ngôi nhà to lớn, hay nếu ông ấy đi Châu âu và quay trở lại ngậm phì phà một điếu xì gà, bạn không hài lòng hay sao?

Bạn thấy không, những người giàu có và những người có quyền hành rất hữu dụng trong những trường học. Trường học tán dương họ và họ làm điều gì đó cho trường học, vì vậy nó có lợi cho cả hai. Nhưng câu hỏi không chỉ là tại sao trường học lại mời những người quan trọng vào những chức vụ của nó; đó là lý do tại sao bạn cũng muốn là một người quan trọng, hay tại sao bạn muốn kết hôn với người giàu có, người nổi tiếng nhất, hay người đẹp trai nhất. Bộ bạn không muốn là người này hay người kia quan trọng hay sao? Và khi bạn có những ham muốn đó, bạn có sẵn trong mình hạt giống của đồi bại rồi. Bạn có hiểu điều gì tôi đang nói không?

Hãy gạt bỏ đi trong chốc lát câu hỏi tại sao trường học mời những người giàu có trong khi cũng có những người nghèo khổ phù hợp những chức vụ này. Nhưng có bất kỳ người nào trong các bạn thích gần gũi những người nghèo, gần gũi những người dân làng hay không? Bạn có làm như vậy không? Và bạn có thấy một sự việc lạ lùng khác: làm thế nào những khất sĩ muốn được xếp chỗ ngồi ở nơi nổi bật, cách họ chen lấn để được ở hàng đầu hay không? Tất cả chúng ta đều muốn có sự nổi tiếng, sự công nhận. Người Bà-la-môn thực sự là người không cầu xin bất kỳ cái gì từ bất kỳ ai, không phải vì anh ấy kiêu ngạo, nhưng vì anh ấy là một ngọn đèn cho chính anh ấy; nhưng chúng ta đã mất tất cả việc đó rồi.

Bạn biết không, có một câu chuyện tuyệt vời về Alexander khi ông ấy đến Ấn độ. Sau khi đã chinh phục quốc gia này, ông ấy muốn gặp vị thủ tướng đã mang lại trật tự như thế trong mảnh đất này và đã tạo ra một tánh lương thiện như thế, đạo đức như thế trong những con người. Khi nhà vua giải thích rằng vị thủ tướng là một người Bà la môn và đã trở về ngôi làng của ông ấy, Alexander yêu cầu được đến gặp ông ấy. Nhà vua đã triệu tập vị thủ tướng, nhưng ông ấy không đến vì ông ấy không thèm để ý phô trương mình với mọi người. Bất hạnh thay chúng ta đã mất đi cái tinh thần đó. Bởi vì chính chúng ta bị trống rỗng, đờ đẫn, đau khổ, chúng ta là những kẻ ăn mày, theo khía cạnh tâm lý, đang tìm kiếm một người hay một vật nào đó để nuôi dưỡng chúng ta, để cho chúng ta hy vọng, để duy trì chúng ta, và đó là lý do tại sao chúng ta biến những sự việc bình thường trở thành xấu xa.

Một viên chức nổi tiếng nào đó đến đặt viên đá đầu tiên cho một tòa nhà thì cũng được thôi; có sự hư hại nào trong việc đó đâu? Nhưng điều gì gây mất đạo đứctoàn bộ cái tinh thần phía sau nó. Bạn không bao giờ đi thăm người dân làng, phải không? Bạn không bao giờ nói chuyện với họ, cảm thông cùng họ, chính mình nhận thấy rằng họ phải ăn quá ít, họ làm việc liên tục từ ngày này sang ngày khác mà không được nghỉ ngơi; nhưng bởi vì tôi vô tình giải thích cho bạn những sự việc nào đó, bạn liền sẵn sàng chỉ trích những người khác. Đừng ngồi lẩn quẩn đây đó và chỉ trích, điều đó trống rỗng lắm, nhưng hãy đi và tìm ra cho chính mình những điều kiện trong làng như thế nào và làm một cái gì ở đó: trồng một cái cây, nói chuyện với dân làng, mời họ đến đây, chơi đùa với con cái họ. Vậy thì bạn phát giác rằng một loại xã hội khác sẽ hiện hữu, bởi vì sẽ có tình yêu nơi mảnh đất này. Một xã hội không có tình yêu giống như một vùng đất không có sông ngòi, nó như một sa mạc; nhưng ở đâu có sông ngòi thì đất đai màu mỡ, nó có sự trù phú, nó có vẻ đẹp. Hầu hết chúng ta lớn lên mà không có tình yêu, và đó là lý do tại sao chúng ta đã tạo ra một xã hội cũng xấu xa như những con người sống trong nó.

Người hỏi: Ông nói rằng Chúa không ở trong hình ảnh chạm khắc, nhưng những người khác lại nói rằng Chúa có thật ở đó, và rằng nếu chúng ta có sự trung thành trong tâm hồn thì quyền năng của ngài sẽ tự thể hiện. Sự thật của việc thờ phụng là gì?

Krishnamurti: Mỗi người trong thế giới đều có quan điểm riêng tư. Và bạn biết một quan điểm là gì không? Bạn nói như thế này và người khác nói như thế kia. Mỗi người đều có một quan điểm, nhưng quan điểm không là sự thật; vì vậy làm ơn đừng chỉ nghe quan điểm, đừng đặt thành vấn đề quan điểm đó của ai, nhưng hãy tìm ra cho chính bạn điều gì là sự thật. Quan điểm có thể thay đổi trong chốc lát, nhưng sự thật không thể thay đổi.

Bây giờ, bạn muốn tìm ra cho chính mình liệu rằng Chúa hay sự thật có ở trong cái hình ảnh chạm khắc đó không, đúng chứ? Một hình ảnh chạm khắc là gì? Nó là một vật được tưởng tượng bởi cái trí và được tạo hình dạng đúng kiểu cách bằng gỗ hay bằng đá bởi bàn tay. Cái trí chiếu rọi cái hình ảnh; và bạn nghĩ rằng một hình ảnh được chiếu rọi bởi cái trí là Chúa, mặc dù hàng triệu người đã khẳng định như thế, hay sao?

Bạn nói rằng nếu cái trí trung thành với cái hình ảnh, vậy thì cái hình ảnh sẽ trao quyền năng cho cái trí. Quá rõ ràng để hiểu rằng cái trí tưởng tượng hình ảnh và sau đó rút ra được quyền năng từ sáng chế riêng của nó. Đó là điều gì mà cái trí đang liên tục làm: sáng chế những hình ảnh và rút ra sức mạnh, hạnh phúc, lợi lộc từ những hình ảnh kia, vì vậy vẫn còn trống rỗng, nghèo khó kinh khủng bên trong. Vậy thì điều gì quan trọng không là cái hình ảnh, hay điều gì hàng triệu người diễn tả nó, nhưng hiểu rõ sự vận hành cái trí riêng của bạn.

Cái trí tạo ra và không tạo ra Chúa, nó có thể hung dữ hay tử tế. Cái trí có quyền lực để làm những sự việc lạ lùng nhất. Nó có thể theo đuổi những quan điểm, nó có thể tạo ra những ảo tưởng, nó có thể chế tạo những chiếc phản lực bay với tốc độ khủng khiếp; nó có thể xây dựng những cây cầu đẹp đẽ, lắp đặt những đường xe lửa rộng rãi, phát minh ra những máy móc có thể tính toán ngoài khả năng của con người. Nhưng cái trí không thể làm nên sự thật. Cái gì nó tạo tác không là sự thật, nó chỉ là một quan điểm, một nhận xét. Vì vậy điều quan trọng là tìm ra cho chính mình sự thật là gì.

Muốn tìm ra sự thật là gì, cái trí phải không còn rung động, hoàn toàn lặng yên. Sự lặng yên đó là hành động của thờ phụng – không phải là việc đi đến đền chùa để dâng những đóa hoa và xô đẩy qua một bên những người ăn mày trên đường đi của bạn. Bạn nâng niu, xoa dịu những thần thánh bởi vì bạn sợ hãi họ, nhưng đó không là thờ phụng. Khi bạn hiểu rõ cái trí và cái trí hoàn toàn lặng yên, không phải làm cho lặng yên, vậy thì lặng yên đó là hành động thờ phụng; và trong lặng yên đó, kia kìa xuất hiện cái đó là sự thật, là vẻ đẹp, là Chúa.

Người hỏi: Vào một ngày trước ông đã nói rằng chúng ta nên ngồi yên lặng và nhìn ngắm những hoạt động của cái trí riêng của chúng ta; nhưng những tư tưởng của chúng ta biến mất ngay khi chúng ta bắt đầu ý thức để quan sát chúng. Làm thế nào chúng ta có thể trực nhận cái trí riêng của chúng ta khi cái trí là người trực nhận cùng lúc với điều được trực nhận.

Krishnamurti: Đây là một câu hỏi rất phức tạp, và nhiều sự việc liên quan trong nó.

Bây giờ, liệu có người trực nhận, hay chỉ có trực nhận? Làm ơn theo dõi việc này cẩn thận. Liệu có một người suy nghĩ hay chỉ có suy nghĩ? Chắc chắn, người suy nghĩ không tồn tại trước. Đầu tiên phải có suy nghĩ, và sau đó suy nghĩ tạo ra người suy nghĩ – mà có nghĩa rằng một sự phân chia trong suy nghĩ đã xảy ra. Chỉ khi nào sự phân chia này xảy ra thì mới xuất hiện người quan sát và vật được quan sát, người trực nhận và điều được trực nhận. Vì người hỏi nói rằng, nếu bạn nhìn ngắm cái trí của bạn, nếu bạn quan sát một tư tưởng, thì tư tưởng đó biến mất, nó tan đi; nhưng thực sự chỉ có trực nhận, không có người trực nhận. Khi bạn nhìn một bông hoa, khi bạn chỉ thấy nó, tại ngay khoảnh khắc đó có một thực thể mà nhìn thấy hay không? Hay chỉ có đang thấy? Đang thấy bông hoa đó làm cho bạn nói rằng, “Nó đẹp làm sao, tôi muốn nó”: vì vậy “cái tôi” hiện hữu qua ham muốn, sợ hãi, tham lam, tham vọng, mà trổi dậy theo sau. Chính là những việc này mới tạo ra “cái tôi,” và “cái tôi” không tồn tại nếu không có chúng.

Nếu bạn lắng sâu hơn nữa vào câu hỏi này bạn sẽ phát giác rằng khi cái trí rất lặng yên, hoàn toàn tĩnh, không một lay động của tư tưởngvì vậy không người trải nghiệm, không người quan sát, vậy thì chính trạng thái rất lặng yên đó có hiểu rõ sáng tạo riêng của nó. Trong lặng yên đó cái trí được chuyển đổi thành một cái gì khác. Nhưng cái trí không thể tìm được sự lặng yên đó bằng bất kỳ phương tiện nào, qua bất kỳ kỷ luật nào, qua bất kỳ luyện tập nào; nó không hiện hữu qua việc ngồi trong một góc phòng và cố gắng tập trung. Sự lặng yên đó xuất hiện khi bạn hiểu rõ những phương cách của cái trí. Chính cái trí đã tạo ra cái hình ảnh bằng đá mà con người thờ phụng; chính cái trí đã tạo ra kinh Gita, những tôn giáo có tổ chức, vô số niềm tin; và, để tìm ra điều gì là sự thật, bạn phải đi khỏi những sáng chế của cái trí.

Người hỏi: Con người chỉ là cái trí và bộ não, hay một cái gì đó còn hơn thế nữa? 

Krishnamurti: Làm thế nào bạn sẽ tìm ra được? Nếu bạn chỉ tin tưởng, phỏng đoán, hay chấp nhận điều gì Shankara, Buddha, hay một ai đó đã nói, bạn không đang suy nghĩ kỹ càng, bạn không cố gắng tìm ra sự thật là gì.

Bạn chỉ có một dụng cụ, là cái trí; và cái trí cũng là bộ não. Vì vậy, muốn tìm ra sự thật của vấn đề này, bạn phải hiểu rõ những phương cách vận dụng của cái trí, đúng vậy chứ? Nếu cái trí không trung thực bạn sẽ không bao giờ thấy ngay thẳng; nếu cái trí bị giới hạn bạn không thể trực nhận cái không giới hạn. Cái trí là dụng cụ của trực nhận và, muốn trực nhận trung thực, cái trí phải được làm cho ngay thẳng, nó phải được lau chùi sạch sẽ tất cả những quy định, tất cả những sợ hãi. Cái trí cũng phải được tự do khỏi hiểu biết, bởi vì hiểu biết làm lệch lạc cái trí và làm cho những sự vật méo mó đi. Khả năng to lớn của cái trí là sáng chế, tưởng tượng, phỏng đoán, suy nghĩ – cái khả năng này phải được xoá sạch để cho cái trí rất rõ ràng và rất đơn giản, đúng không? Bởi vì chỉ cái trí hồn nhiên, cái trí trải nghiệm bao la nhưng lại được tự do khỏi hiểu biết và trải nghiệm – chỉ một cái trí như thế mới có thể khám phá cái đó mà còn hơn bộ não và cái trí. Nếu không cái gì bạn khám phá sẽ bị tô điểm bởi cái gì bạn đã trải nghiệm rồi, và trải nghiệm của bạn là kết quả của tình trạng bị quy định của bạn.

Người hỏi: Sự khác nhau giữa nhu cầu và tham lam là gì?

Krishnamurti: Bạn không biết à? Bạn không biết khi nào bạn cần cái gì hay sao? Và một điều gì đó bảo cho bạn biết khi bạn tham lam hay sao? Hãy bắt đầu ở mức độ thấp nhất, và bạn sẽ thấy nó phơi bày. Bạn biết rằng khi bạn có đủ quần áo, nữ trang, hay bất kỳ thứ gì khác, bạn không phải triết lý về nó. Nhưng cái khoảnh khắc nhu cầu chuyển động vào lãnh vực của tham lam, vậy thì ngay lập tức bạn bắt đầu triết lý, lý luận, giải thích cho sự tham lam của bạn. Ví dụ, một bệnh viện tốt, đòi hỏi nhiều giường bệnh, một tiêu chuẩn sạch sẽ nào đó, những chất khử trùng nào đó, cái này và cái kia. Một người đi xa có lẽ phải có một chiếc xe hơi, một chiếc áo khoác và vân vân. Đó là nhu cầu. Bạn cần một số hiểu biết và kỹ năng nào đó để thực hiện nghề nghiệp của bạn. Nếu bạn là một kỹ sư bạn phải biết những sự việc nào đó – nhưng hiểu biết đó có thể trở thành dụng cụ của tham lam. Qua tham lam cái trí sử dụng những vật dụng của nhu cầu như một phương tiện dùng đẩy mạnh những thích thú riêng của người ta. Nó là một qui trình rất đơn giản nếu bạn quan sát nó. Nếu, ý thức được những nhu cầu thực sự của bạn, bạn cũng biết tham lam đến bằng cách nào, cái trí sử dụng những vật dụng của nhu cầu cho sự gia tăng thích thú riêng của nó, vậy thì sẽ không khó khăn lắm để phân biệt rõ giữa nhu cầu và tham lam.

Người hỏi: Nếu cái trí và bộ não là một, vậy thì tại sao khi một tư tưởng hay một thôi thúc nảy sinh mà bộ não bảo cho chúng ta rằng là xấu xa, cái trí thường vẫn tiếp tục nó?

Krishnamurti: Thực sự điều gì đang xảy ra? Nếu một cái kim đâm vào tay bạn, thần kinh chuyển cảm xúc đến bộ não của bạn, bộ não diễn tả thành đau đớn, rồi thì cái trí phản kháng lại đau đớn đó, và bạn nhổ cái kim ra hoặc làm cái gì đó về nó. Nhưng có vài chuyện mà cái trí vẫn tiếp tục, thậm chí nó biết rõ là xấu xa hay là ngu dốt. Nó biết hút thuốc là rất ngu xuẩn, nhưng người ta vẫn tiếp tục hút. Tại sao vậy? Bởi vì nó thích những cảm giác của hút thuốc, và đó là tất cả. Nếu cái trí ý thức mãnh liệt được sự ngu xuẩn của hút thuốc như nó có về sự đau đớn của kim chích, nó sẽ ngừng hút thuốc ngay tức khắc. Nhưng nó không muốn ý thức việc đó mãnh liệt như thế bởi vì hút thuốc trở thành một thói quen dễ chịu. Nó cũng giống như tham lam hay bạo lực. Nếu tham lam làm đau đớn bạn như cây kim đâm vào tay bạn, bạn sẽ ngay tức khắc ngừng tham lam, bạn sẽ không lý luận gì về nó; và nếu bạn thực sự tỉnh thức được toàn ý nghĩa của bạo lực, bạn sẽ không viết những quyển sách về không bao lực – mà tất cả đều vô lý, bởi vì bạn không cảm thấy nó bạn chỉ nói về nó mà thôi. Nếu bạn ăn cái gì đó mà gây đau bụng kinh khủng, bạn sẽ không tiếp tục ăn nó nữa, phải vậy không? Bạn bỏ nó đi ngay lập tức. Tương tự như vậy, nếu ngay khi bạn nhận ra rằng ganh tị và tham lamđộc hại, nguy hiểm, tàn bạo, cũng gây chết người giống như vết cắn của con rắn hổ mang, bạn sẽ cảnh giác với chúng. Nhưng, bạn thấy không, cái trí không muốn nhìn những sự việc này quá kỹ càng; trong lãnh vực này nó có những thích thú được bảo đảm, và nó từ chối thú nhận rằng tham vọng, ganh tị, tham lam, ham muốnđộc hại. Vì vậy nó nói rằng, “Hãy để cho chúng tôi bàn luận về không tham lam, không bạo lực, hãy để cho chúng tôi có những lý tưởng” – và trong khi chờ đợi những điều đó xảy ra nó tiếp tục với những liều thuốc độc của nó. Vì vậy hãy tìm ra cho chính mình những sự việc gây phân hóa, gây hủy hoại và độc hại này, và trong chốc lát bạn sẽ buông rơi chúng; nhưng bạn chỉ nói rằng, “Tôi không được như thế” rồi tiếp tục như trước kia, bạn đang chơi trò đạo đức giả. Hãy là một sự việc này hay một sự việc khác, nóng hoặc lạnh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14856)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11940)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12839)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10437)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12150)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15379)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11191)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10624)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12548)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16526)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14411)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11870)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14891)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12121)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16956)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11643)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12798)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11422)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12157)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52372)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15568)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14057)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11500)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13253)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12871)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 18010)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12544)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12738)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54318)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14506)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 10006)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13893)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58209)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14590)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20257)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13880)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15491)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17598)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13376)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11972)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13556)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14728)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12569)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12205)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12129)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13355)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12618)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13720)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13399)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25736)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12243)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14635)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11921)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42166)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28444)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38923)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14812)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12790)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16344)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant