Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

24-Năng lượng của sự sống

28 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 8721)
24-Năng lượng của sự sống

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Things by Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 24
Năng lượng của sự sống

 Một trong những vấn đề khó khăn nhất của chúng ta là điều gì chúng ta gọi là kỷ luật, và nó thực sự rất phức tạp. Bạn thấy không, xã hội cảm thấy rằng nó phải kiểm soát và khép vào kỷ luật người công dân, định hình cái trí của anh ấy theo những khuôn mẫu tôn giáo, xã hội, luân lý, kinh tế nào đó.

Bây giờ, kỷ luật có cần thiết hay không? Làm ơn hãy lắng nghe cẩn thận, đừng lập tức nói rằng “có” hay “không.” Hầu hết chúng ta đều cảm thấy, đặc biệt khi chúng ta còn nhỏ, rằng không nên có kỷ luật, rằng chúng ta nên được phép làm bất kỳ điều gì chúng ta thích, và chúng ta nghĩ rằng đó là tự do. Nhưng chỉ nói rằng chúng ta nên hay không nên có kỷ luật, rằng chúng ta nên được tự dovân vân, chẳng có ý nghĩa bao nhiêu cả nếu không hiểu rõ toàn vấn đề của kỷ luật.

Một vận động viên say mê đang luôn luôn kỷ luật chính anh ấy, phải không? Niềm hân hoan của anh ấy trong việc chơi những trò chơi và chính yêu cầu duy trì sự khỏe mạnh khiến cho anh ấy đi ngủ sớm, ngăn cản anh ấy hút thuốc lá, ăn thức ăn thích hợptuân theo những luật lệ để giữ gìn sức khỏe tốt. Kỷ luật của anh ấy không phải là một áp đặt hay xung đột, nhưng là một kết quả tự nhiên của niềm đam mê thể thao.

Và, kỷ luật làm gia tăng hay giảm đi năng lượng của con người? Con người khắp thế giới, trong mọi tôn giáo, trong mọi trường phái triết lý, áp đặt kỷ luật vào cái trí, mà ngụ ý kiểm soát, kháng cự, điều chỉnh, đè nén, và tất cả việc này có cần thiết hay không? Nếu kỷ luật tạo ra một nguồn năng lượng lớn cho con người, vậy thì nó xứng đáng, vậy thì nó có ý nghĩa; nhưng nếu nó chỉ đè nén năng lượng của con người, nó rất nguy hại, hủy diệt. Tất cả chúng ta đều có năng lượng và câu hỏi là liệu rằng cái năng lượng có được qua kỷ luật có thể làm tăng sinh lực, phong phú và thừa thãi, hay liệu rằng kỷ luật lại hủy họai bất kỳ năng lượng nào chúng ta có. Tôi nghĩ đây là vấn đề chủ yếu.

 Nhiều người không có nhiều năng lượng, và một chút năng lượng nào đó mà họ có chẳng mấy chốc bị bóp nghẹt và bị hủy hoại bởi những kiểm soát, những đe dọa và những cấm đoán của xã hội đặc biệt của họ với cái tạm gọi là giáo dục của nó; vì vậy họ trở thành những công dân chỉ biết bắt chước và không còn sinh khí của xã hội đó. Và kỷ luật có đưa thêm năng lượng được gia tăng vào cá thể yếu đuối để anh ấy bắt đầu làm việc cùng nó hay không? Nó có làm cho cuộc sống anh ấy phong phú và đầy sinh lực hay không?

Khi bạn còn rất nhỏ, như hiện nay , bạn có đầy năng lượng, phải không? Bạn đang chơi đùa, xô đẩy nơi này hay nơi kia, nói chuyện; bạn không thể ngồi yên lặng, bạn đầy sức sống. Vậy thì chuyện gì xảy ra? Khi bạn lớn lên những giáo viên của bạn bắt đầu giảm bớt năng lượng đó bằng cách định hình nó, hướng nó vào những khuôn mẫu khác nhau; và cuối cùng khi bạn trở thành một người đàn ông hay phụ nữ một chút năng lượng còn lại của bạn chẳng mấy chốc bị bóp chết bởi xã hội, mà nói rằng bạn phải là những công dân phù hợp, bạn phải cư xử theo một cách nào đó. Qua cái tạm gọi là giáo dụccưỡng bách của xã hội, năng lượng thừa thãi bạn có khi còn trẻ này đang dần dần bị cạn kiệt.

Bây giờ, liệu năng lượng bạn có vào lúc này có thể được tăng thêm sinh lực qua kỷ luật hay không? Nếu bạn chỉ có một chút ít năng lượng, liệu kỷ luật có thể gia tăng nó được hay không? Nếu nó có thể làm được, vậy thì kỷ luật có ý nghĩa; nhưng nếu kỷ luật thực sự gây cạn kiệt năng lượng của con người, vậy thì rõ ràng kỷ luật phải bị gạt đi.

Năng lượng mà tất cả chúng ta đều có này là gì? Năng lượng này là suy nghĩ, cảm thấy; nó là thích thú, nhiệt thành, tham lam, đam mê, dục vọng, tham vọng, hận thù. Vẽ những bức tranh, sáng chế những chiếc máy, xây dựng những cây cầu, làm những con đường, cày xới những cánh đồng, chơi những trò chơi, viết những bài thơ, ca hát, nhảy múa, đi đến đền chùa, thờ phụng – đây là tất cả những biểu hiện của năng lượng; và năng lượng cũng tạo ra ảo tưởng, ranh mãnh, đau khổ. Những chất lượng hủy diệt nhất và nhỏ nhiệm nhất đều là những biểu hiện ngang bằng của năng lượng con người. Nhưng, bạn thấy không, qui trình kiểm soát hay khép vào kỷ luật năng lượng này, buông thả nó trong một phương hướng và kềm hãm nó trong một phương hướng khác, chỉ trở thành một tiện lợi của xã hội; cái trí được định hình theo khuôn mẫu của một nền văn hóa đặc biệt, và vì vậy năng lượng của nó dần dần cạn kiệt.

Vì vậy, vấn đề của chúng ta là, liệu năng lượng này, mà trong một mức độ này hay mức độ kia tất cả chúng ta đều sở hữu, có thể được gia tăng, có thể được cho sinh lực thêm nữa – và nếu như vậy, để làm cái gì? Năng lượng này dùng cho việc gì? Có phải mục đích của năng lượng là tạo ra chiến tranh hay không? Nó có là sáng chế ra những máy bay phản lực và vô số những máy móc khác, theo sau một vị đạo sư nào đó, đậu những kỳ thi, có con cái, lo âu vô tận về những vấn đề này và vấn đề kia? Hay năng lượng có thể được sử dụng trong một phương cách khác để cho tất cả những hoạt động của chúng ta đều có ý nghĩa liên quan đến một cái gì đó mà vượt khỏi tất cả những hoạt động? Chắc chắn, nếu cái trí con người, mà có khả năng của năng lượng kinh ngạc như thế, nếu không đang tìm kiếm sự thật hay Chúa, mỗi biểu hiện của năng lượng này trở thành một phương tiện của hủy diệt và đau khổ. Muốn tìm kiếm sự thật đòi hỏi phải có năng lượng vô biên; và, nếu con người không đang làm việc đó, anh ấy làm hao phí năng lượng của mình trong những phương cách để tạo ra sự ranh mãnh, và vì vậy xã hội phải kiểm soát anh ấy. Bây giờ, liệu có thể giải phóng toàn bộ năng lượng rồi dùng nó trong công việc tìm kiếm Chúa hay sự thật và, trong khi tiến hành khám phá cái gì là sự thật, là một công dân mà hiểu rõ những vấn đề căn bản của cuộc sống và là con ngườixã hội không thể hủy hoại được hay không? Bạn có đang theo dõi việc này không, hay nó hơi quá phức tạp?

Bạn thấy không, con ngườinăng lượng, và nếu con người không tìm kiếm sự thật, năng lượng này trở thành hủy hoại; vì vậy xã hội kiểm soát và định hình cá thể, mà bóp nghẹt năng lượng này. Đó là điều gì đã xảy ra cho đa số những người trưởng thành khắp thế giới. Và có lẽ bạn đã thấy một sự kiện rất đơn giảnlý thú khác nữa: rằng khoảnh khắc bạn thực sự muốn làm một điều gì đó, bạn có năng lượng để làm nó. Điều gì xảy ra khi bạn ham mê chơi một trò chơi? Tức khắc bạn có năng lượng, phải vậy không? Và chính năng lượng đó trở thành phương tiện kiểm soát chính nó, vì vậy bạn không cần sự kỷ luật bên ngoài. Trong việc tìm kiếm sự thật, năng lượng tạo ra kỷ luật riêng của nó. Con người đang tìm kiếm sự thật cùng lúc trở thành loại công dân đúng đắn, mà không lệ thuộc vào bất kỳ khuôn mẫu của xã hội hay chính phủ đặc biệt nào.

Vì vậy những em học sinh cũng như những người giáo viên phải làm việc cùng nhau và mang lại sự giải phóng năng lượng vô biên này để tìm ra sự thật, Chúa hay chân lý. Trong chính sự tìm kiếm sự thật của bạn sẽ có kỷ luật và lúc đó bạn sẽ là con người thực sự, một cá thể tổng thể, chứ không là một người Ấn độ giáo hay một người Parsi bị giới hạn bởi xã hộivăn hóa đặc biệt của anh ấy. Nếu, thay vì giảm đi năng lượng của anh ấy như nó đang làm bây giờ, trường học có thể giúp đỡ em học sinh đánh thức năng lượng của em để dùng nó trong công việc theo đuổi sự thật, vậy thì bạn sẽ thấy rằng kỷ luật có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn.

Tại sao trong ngôi nhà, trong phòng học và trong ký túc xá bạn luôn luôn đang được chỉ bảo rằng bạn phải làm cái gì và không được làm cái gì? Chắc chắn, chính bởi vì cha mẹ và giáo viên của bạn, giống như phần còn lại của xã hội, đã không nhận thức rằng con người tồn tại chỉ cho một mục đích duy nhất, là tìm ra sự thật hay Chúa. Nếu thậm chí một nhóm nhỏ những người giáo dục muốn hiểu rõ và trao toàn chú ý của họ vào sự tìm kiếm đó, họ sẽ tạo ra một loại giáo dục mới và một xã hội hoàn toàn khác hẳn.

Bộ bạn không thấy hầu hết những người quanh chúng ta, kể cả cha mẹ và những giáo viên của bạn có ít ỏi năng lượng làm sao? Họ đang từ từ chết dần đi, ngay cả khi thân thể họ chưa già nua. Tại sao vậy? Bởi vì họ đã chấp nhận gục ngã buông trôi trong sự qui phục xã hội. Bạn thấy không, nếu không hiểu rõ mục đích căn bản của nó là được tự do khỏi một sự việc lạ thường gọi là cái trí, với khả năng của nó là tạo ra những tàu ngầm nguyên tử và những máy bay phản lực, là có thể viết ra những bài thơ và những vần văn hay kinh ngạc, là có thể làm cho thế giới đẹp đẽcùng lúc hủy diệt thế giớinếu không hiểu rõ mục đíchtìm ra sự thật hay Chúa, năng lượng này trở thành hủy diệt; và rồi thì xã hội nói rằng, “Chúng ta phải định hình và kiểm soát năng lượng cá thể.”

Vì vậy, dường như đối với tôi chức năng của giáo dục là tạo ra sự giải phóng năng lượng trong công việc theo đuổi tốt lành, sự thật, hay là Chúa, mà đáp lại làm cho cá thể trở thành một con người thực sự và vì vậy là loại công dân đúng đắn. Nhưng chỉ thuần túy kỷ luật, nếu không hiểu rõ trọn vẹn tất cả việc này, đều không có ý nghĩa gì cả, nó là sự hủy diệt nhất. Nếu mỗi người trong các bạn không được giáo dục, để khi bạn rời trường học và đi vào thế giới, có được sinh lực tràn đầy và thông minh, đầy năng lượng thừa thãi để tìm ra sự thật là gì, bạn sẽ chỉ bị nuốt chững bởi xã hội; bạn sẽ bị vây bủa, bị hủy diệt, cực kỳ bất hạnh trong suốt phần còn lại của đời bạn. Như một con sông tạo ra hai bờ mà giam giữ nó, vì vậy năng lượng dùng tìm kiếm sự thật tạo ra kỷ luật riêng của nó mà không có bất kỳ hình thái áp đặt nào; và như con sông tìm ra biển cả, năng lượng đó tìm ra tự do riêng của nó.

Người hỏi: Tại sao người Anh lại đến cai trị người Ấn độ?

Krishnamurti: Bạn thấy đó, những người có nhiều năng lượng hơn, nhiều sinh lực hơn, nhiều khả năng hơn, nhiều tinh thần hơn, mang lại hoặc đau khổ hoặc hạnh phúc cho những người láng giềng ít năng lượng hơn của họ. Vào một thời điểm văn minh Ấn độ bùng nổ khắp Châu á; những con người của nó đầy khao khát sáng tạo, và họ mang tôn giáo đến Trung quốc, Nhật bản, Miến điện. Những quốc gia khác theo đuổi thương mại, mà có lẽ cũng cần thiết và có những đau khổ riêng của nó – nhưng đó là cái cách của cuộc sống. Điều lạ lùng của cuộc sống là những người đang tìm kiếm sự thật hay Chúa còn bùng nổ hơn nhiều, họ giải phóng cái năng lượng lạ thường, không chỉ trong chính họ nhưng còn trong những người khác, và chính họ là những người cách mạng thực sự, không phải những người cộng sản, những người xã hội hay những người chỉ có đổi mới. Những người chinh phục và những người cai trị đến và đi, nhưng vấn đề của con người thì lúc nào cũng giống nhau. Tất cả chúng ta đều muốn thống trị, qui phục hay chống đối; nhưng con người đang tìm kiếm sự thật được tự do khỏi tất cả những xã hội và tất cả những nền văn hoá.

Người hỏi: Thậm chí trong khi thiền định người ta dường như không thể trực nhận được điều gì là sự thật; vậy ông làm ơn chỉ bảo cho chúng tôi biết sự thật là gì?

Krishnamurti: Trong chốc lát chúng ta hãy rời bỏ câu hỏi sự thật là gì và đầu tiên hãy suy nghĩ thiền định là gì. Đối với tôi, thiền định là một điều gì đó hoàn toàn khác hẳn điều gì những quyển sách và những vị đạo sư của bạn đã dạy dỗ. Thiền định là sự tiến hành hiểu rõ cái trí riêng của bạn. Nếu bạn không hiểu rõ sự suy nghĩ riêng của bạn, mà là hiểu rõ về chính mình, bất kỳ điều gì bạn suy nghĩ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Nếu không có cái nền tảng của hiểu rõ về chính mình, suy nghĩ dẫn đến sự ranh mãnh. Mỗi tư tưởng có một ý nghĩa; và nếu cái trí có thể thấy cái ý nghĩa đó, không chỉ một hay hai tư tưởng, nhưng của mỗi tư tưởng khi nó phát sinh vậy thì chỉ có tập trung vào một ý tưởng, một hình ảnh hay một tập hợp của những từ ngữ đặc biệt – mà thông thường được gọi là thiền định – là một hình thức tự thôi miên.

Vì vậy, dù bạn đang ngồi yên lặng, đang nói chuyện, hay đang chơi đùa, liệu bạn có ý thức được ý nghĩa của mỗi tư tưởng, của mỗi phản ứng mà bạn tình cờ có hay không? Hãy thử nó đi và bạn sẽ thấy khó khăn làm sao khi ý thức được mỗi chuyển động tư tưởng riêng của bạn, bởi vì những tư tưởng tiếp nối nhau thật mau lẹ cái này tiếp theo cái khác. Nhưng nếu bạn muốn tìm hiểu mỗi tư tưởng, nếu bạn thực sự muốn thấy nội dung của nó, vậy thì bạn sẽ phát giác rằng những tư tưởng của bạn chậm chậm lại và bạn có thể nhìn ngắm chúng. Sự chậm chậm của suy nghĩ này và sự tìm hiểu của mỗi tư tưởng là sự tiến hành của thiền định; và nếu bạn đi vào nó bạn sẽ phát giác rằng, bằng cách ý thức được mỗi tư tưởng, cái trí của bạn – mà lúc này là một kho lưu trữ rộng lớn của những tư tưởng luôn luôn khuấy động và đang xô đẩy nhau – trở thành rất yên lặng, hoàn toàn tĩnh. Vậy thì không có thôi thúc, không có cưỡng bách, không có sợ hãi trong bất kỳ hình thái nào; và, trong tĩnh lặng này, cái là sự thật hiện hữu. Không có “bạn” trải nghiệm sự thật, nhưng cái trí đang tĩnh lặng, sự thật tự nhiên hiện hữu. Khoảnh khắc có “bạn” có người trải nghiệm, và người trải nghiệm chỉ là kết quả của tư tưởng, anh ấy không còn cơ sở nếu khôngsuy nghĩ.

Người hỏi: Nếu chúng tôi phạm một lỗi lầm và một người nào đó vạch ra cho chúng tôi, tại sao chúng tôi lại phạm cùng lỗi lầm đó?

Krishnamurti: Bạn nghĩ sao đây? Tại sao bạn hái những bông hoa, hay bẻ cành cây, hay phá hủy đồ đạc, hay ném giấy bừa bãi, mặc dù tôi chắc chắn rằng bạn đã được bảo hàng tá lần rằng bạn không nên làm nó? Hãy lắng nghe cẩn thận và bạn sẽ hiểu ra. Khi bạn làm những sự việc như thế đó bạn đang ở trong trạng thái không suy nghĩ, phải vậy không? Bạn đang không tỉnh thức, bạn đang không suy nghĩ, cái trí của bạn mê muội, vì thế bạn làm những sự việc rõ ràng là xuẩn ngốc. Chừng nào bạn còn không tỉnh thức trọn vẹn, không hoàn toàn ở đó, thật là không tốt lành khi chỉ nói rằng bạn không được làm những sự việc nào đó. Nhưng, nếu người giáo dục có thể giúp bạn suy nghĩ thận trọng, chú ý sâu sắc, nhìn ngắm đầy thích thú cây cối, chim chóc, con sông, sự phong phú lạ thường của quả đất, vậy thì một lời nhắc nhở sẽ quá đủ, bởi vì lúc đó bạn sẽ nhạy cảm, đang sống cùng mọi thứ quanh bạn và trong bạn.

Bất hạnh thay, nhạy cảm của bạn bị hủy diệt bởi vì, từ lúc bạn được sinh ra đến khi bạn chết, bạn sẽ luôn luôn được bảo nên làm việc này và không nên làm việc kia. Cha mẹ, giáo viên, xã hội, tôn giáo, vị giáo sĩ, và cũng vậy những tham vọng riêng của bạn, những tham lam riêng của bạn và những ganh tị – tất cả đều nói ‘làm” và “không làm.” Muốn được tự do khỏi tất cả những cái làm và không làm này và tuy nhiên lại có tánh nhạy cảm để cho bạn ý tứ, tử tế và cùng lúc lại không gây tổn hại cho người khác, không ném giấy lung tung hay tránh qua một hòn đá trên đường mà không nhặt nó vất đi – điều này đòi hỏi sự suy nghĩ lớn lao. Và chắc chắn như vậy, mục đích của giáo dục không phải chỉ cho bạn vài tước hiệu trước cái tên của bạn, nhưng còn đánh thức trong bạn tinh thần suy nghĩ này để cho bạn nhạy cảm, tỉnh táo, ý tứ, ân cần, tử tế.

Người hỏi: Cuộc sống là gì, và làm thế nào chúng ta có thể được hạnh phúc?

Krishnamurti: Một câu hỏi rất hay từ một cậu bé. Cuộc sống là gì? Nếu bạn hỏi người kinh doanh, anh ấy sẽ bảo cho bạn cuộc sống là vấn đề bán được nhiều hàng hoá, kiếm ra tiền, bởi vì đó là cuộc sống của anh ấy từ sáng đến tối. Con người đầy tham vọng sẽ bảo với bạn cuộc sống là một tranh đấu để đạt được, để thành tựu. Và con người đã đạt được vị trí và quyền hành, mà đứng đầu một tổ chức hay một quốc gia, cuộc sống là đầy hoạt động trong tạo tác riêng của anh ấy. Và đối với người lao động, đặc biệt trong quốc gia này, cuộc sống là làm việc liên tục mà không có một ngày nghỉ ngơi; nó là bẩn thỉu, đau khổ, không đủ lương thực.

Bây giờ, liệu con người có thể được hạnh phúc qua tất cả sự tầm thường này, sự tranh đấu này, sự đói khátđau khổ này hay không? Rõ ràng là không. Vậy thì anh ấy làm gì đây? Anh ấy không nghi vấn, anh ấy không hỏi cuộc sống là gì, nhưng lại triết lý về hạnh phúc. Anh ấy nói về tình huynh đệ trong khi lại bóc lột những người khác. Anh ấy sáng chế ra cái tôi to hơn, cái linh hồn siêu hạng, một cái gì đó mà cuối cùng sẽ làm cho anh ấy hạnh phúc mãi mãi. Nhưng hạnh phúc không hiện hữu khi bạn tìm kiếm nó; tự do là một phó sản, nó hiện hữu khi có tốt lành, khi có tình yêu, khi không còn tham vọng, khi cái trí đang lặng lẽ tìm ra cái gì là sự thật.

Người hỏi: Tại sao chúng ta lại đấu tranh lẫn nhau?

Krishnamurti: Tôi nghĩ người lớn cũng hỏi câu này, phải vậy không? Tại sao chúng ta đấu tranh? Người Mỹ chống lại người Nga, người Trung quốc phản kháng phương Tây. Tại sao? Chúng ta nói về hoà bình nhưng chuẩn bị cho chiến tranh. Tại sao vậy? Bởi vì tôi nghĩ rằng đa số con người thích ganh đua, đấu tranh, đó là sự thật dễ hiểu, nếu không chúng ta sẽ chấm dứt việc đó. Trong việc đấu tranh có một ý thức cao độ của đang sống, điều đó cũng là một sự thật. Chúng ta nghĩ rằng đấu tranh trong mọi hình thứccần thiết để khẳng định chúng ta đang sống; nhưng, bạn thấy không, cái loại đang sống đó rất hủy diệt. Có một đang sống mà không có đấu tranh. Nó giống như bông huệ tây, giống như bông hoa lớn lên; nó không đấu tranh, nó là. Đang là của bất kỳ cái gì là sự tốt lành của nó. Nhưng chúng ta không được giáo dục cho tất cả việc đó. Chúng ta được giáo dục để ganh đua, để đấu tranh, để thành một người lính, những luật sư, những cảnh sát, những giáo sư, những hiệu trưởng, những thương gia, tất cả đều muốn leo lên đến đỉnh. Chúng ta tất cả đều muốn thành công. Có nhiều người giả vờ khiêm tốn bên ngoài nhưng chỉ có những người hạnh phúc mới thực sự khiêm tốn bên trong, và chính họ là những người không đấu tranh.

Người hỏi: Tại sao cái trí lại cư xử không đúng đắn với những người khác và cũng cư xử không đúng đắn với chính nó?

Krishnamurti: Chúng ta có ý gì qua từ ngữ cư xử không đúng đắn? Một cái trí tham vọng, tham lam, ganh tị, một cái trí chất đầy những niềm tintruyền thống, một cái trí hung bạo, bóc lột con người – một cái trí như thế trong hành động của nó hiển nhiên mang lại sự tổn thương và tạo ra một xã hội đầy xung đột. Chừng nào cái trí còn không hiểu rõ về chính nó, hành động của nó hướng về hủy hoại; chừng nào cái trí còn không hiểu rõ về chính nó, nó chỉ nuôi dưỡng hận thù. Đó là lý do tại sao rất cần thiết cho bạn nên tỉnh táo hiểu rõ về chính bạn và không học hỏi nơi những quyển sách. Không quyển sách nào có thể dạy bạn hiểu rõ về chính bạn. Một quyển sách chỉ có thể mang lại cho bạn thông tin về phương pháp hiểu rõ, nhưng nó không là hiểu rõ về chính bạn trong hành động. Khi cái trí thấy chính nó trong cái gương của liên hệ, từ trực nhận đó có hiểu rõ về chính nó, và nếu khônghiểu rõ, chúng ta không thể nào giải quyết được tình trạng hỗn độn này, sự đau khổ khủng khiếp này mà chúng ta đã tạo ra trong thế giới.

Người hỏi: Cái trí tìm kiếm sự thành công có khác biệt với cái trí tìm kiếm sự thật hay không?

Krishnamurti: Nó cũng là cái trí, dù nó đang tìm kiếm sự thành công hay sự thật; nhưng, chừng nào cái trí còn đang tìm kiếm sự thành công, nó không thể tìm ra cái gì là sự thật. Hiểu rõ sự thật là thấy rõ sự thật trong cái giả dối, và thấy cái gì là sự thật như là sự thật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14856)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11940)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12839)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10437)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12150)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15379)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11191)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10624)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12548)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16526)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14411)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11870)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14891)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12121)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16956)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11643)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12798)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11422)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12157)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52372)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15568)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14057)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11500)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13253)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12871)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13322)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 18010)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12544)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12738)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54318)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14506)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 10006)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13893)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58210)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14590)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20257)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13880)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15491)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17598)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13376)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11972)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13556)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14728)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12569)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12205)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12129)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13355)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12618)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13720)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13399)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25736)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12243)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14635)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11921)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42166)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28444)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38924)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14812)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12790)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16344)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant