Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Chương Thứ Chín

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 12683)
9. Chương Thứ Chín
TỊNH ĐỘ GIÁO KHÁI LUẬN

Nguyên tác Nhật ngữ: Vọng Nguyệt Tín Hanh

 Hán dịch: Ấn Hải - Việt dịch: Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ


Chương thứ chín

Thuyết thế giới Liên Hoa Tạng của kinh Hoa Nghiêm

Tiết thứ nhất

Thuyết thế giới Liên Hoa Tạng

Thế giới Liên Hoa Tạng (Padma-garbha-loka-dhātu) là Tịnh độ của Đức Phật Tì-lô-giá-na (Vairocana). Kinh Hoa nghiêmkinh Phạm võng đều lược thuật cảnh tượng của thế giới ấy. Thuyết này là dựa theo khảo sát của phiếm thần luận đem toàn vũ trụ đặt trong Liên Hoa Thai Tạng, cùng với văn kinh Duy-ma, kinh Pháp hoa đã nói đoạn ở trước là Ta-bà tức Tịnh độ; luận điểm có chỗ giống nhau. Theo các kinh đã nói là có xu hướng tích cực.

Thuyết thế giới Liên Hoa Tạng cũng có vài loại bất đồng. Trong kinh Hoa nghiêm gọi là thế giới hải Hoa Tạng trang nghiêm, được cấu tưởng rất rộng lớn. Trong kinh Phạm võng gọi là thế giới Liên Hoa Đài Tạng, lấy phạm vi một nghìn trăm ức thế giới có một nghìn trăm ức núi Tu-di làm một thế giới. Trong Nhiếp Đại thừa luận nói Tịnh độ của chư Phật được kiến lập trên liên hoa. Đặc biệt là trụ xứ của Đức Phật Tì-lô-giá-na không có hạn định. Có lẽ kinh Hoa nghiêm đề xướng sớm nhất; kế đến kinh Phạm võng nói đơn thuần hóa là Đức Phật Tì-lô-giá-na đã hóa một cõi nước lớn; cuối cùngNhiếp Đại thừa luận càng phổ biến hóa, được Tịnh độ của chư Phật lấy làm quy phạm.

 

Tiết thứ hai

Thế giới Liên Hoa Tạng của kinh Hoa Nghiêm

Nay y theo phẩm Hoa Tạng thế giới, kinh Tân Hoa nghiêm quyển 8, do ngài Thật-xoa-nan-đà dịch vào đời Đường, nói về sự cấu thành thế giới hải Hoa Tạng trang nghiêm. Tầng dưới của thế giới này có bất khả thuyết vi trần số phong luân, phong luân cao nhất có năng lực giữ gìn biển Hương Thủy, trong biển Hương Thủyhoa sen lớn, trong hoa sen lớn có thành lập thế giới. Thế giới này được núi Kim Cang Luân vây quanh, bên trong là đại địa, trong đại địabất khả thuyết vi trần số biển Hương Thủy, trong mỗi biển Hương Thủy đều có bất khả thuyết vi trần số thế giới chủng (tức là một tập hợp lớn của thế giới), trong mỗi thế giới chủng cũng có bất khả thuyết vi trần số thế giới, hình dáng mỗi thế giới đều không giống nhau. Chính giữa biển Hương Thủy gọi là Vô biên diệu hoa quang, từ trong biển này hiện ra hoa sen lớn, trên hoa senmột thế giới chủng tên là Phổ chiếu thập phương xí nhiên bảo quang minh. Có hai mươi tầng thế giới xếp chồng lên nhau. Tầng thế giới thứ nhất ở dưới cùng gọi là Tối thắng quang minh biến chiếu, có một Phật sát vi trần số thế giới bao quanh, Đức Phật Tịnh Nhãn Li Cấu Đăng trụ trong đó.

Kế đến, từ phương trên đi qua vi trần số thế giới, có thế giới tên là Chủng chủng hương liên hoa diệu trang nghiêm, có hai Phật sát vi trần số thế giới bao quanh, Đức Phật Sư Tử Quang Thắng Chiếu trụ trong đó. Như thế, theo thứ tự từ phương trên có các thế giới tên: Nhất thiết bảo trang nghiêm phổ chiếu quang, Chủng chủng quang minh hoa trang nghiêm, Phổ phóng diệu hoa quang, Tịnh diệu quang minh, Chúng hoa diệm trang nghiêm, Xuất sanh oai lực địa, Xuất diệu âm thanh, Kim cang tràng, Hằng xuất hiện đế thanh bảo quang minh, Quang minh chiếu diệu. Từ ba Phật sát cho đến mười hai Phật sát vi trần số thế giới, các thế giới bao quanh nhau, mỗi thế giới đều một Đức Phật trụ. Lần lượt lại từ phương trên này đi qua vi trần số thế giớimột thế giới tên Ta-bà, thế giới này lấy kim cang trang nghiêm làm nền, phong luân giữ các sắc chất, hình dáng vòng tròn, trụ trên lưới hoa sen, dùng đồ trang nghiêm của cung điện trời Không Cư trên thế giới này. Từ mười ba Phật sát vi trần số thế giới bao quanh trở lên, Đức Phật Tì-lô-giá-na trụ trong đó.

Lại nữa, ở phương trên này có các thế giới tên: Tịch tĩnh li trần quang, Chúng diệu quang minh đăng, Thanh tịnh quang biến chiếu, Bảo trang nghiêm tạng, Li trần, Thanh tịnh quang phổ chiếu và Diệu bảo diễm. Từ mười bốn Phật sát cho đến hai mươi Phật sát vi trần số thế giới bao quanh, mỗi thế giới đều có Đức Phật trụ. Ngoài ra, mười phương ở chính giữa là biển Hương Thủy, mỗi phương cũng có một biển Hương Thủy. Từ trong đó hiện ra hoa sen lớn, trên hoa sen cũng có hai mươi tầng thế giới chủng; lại mười phương này có mười thế giới chủng bao quanh, mỗi thế giới cũng có mười phương, mười cái hai mươi tầng thế giới chủng bao quanh, ngay chính giữa thế giới chủng hợp lại tính ra có một trăm mười một thế giới chủng, tổ chức thành thế giới hải Hoa Nghiêm Trang Nghiêm (thấy rải rác trong Đại Chính, 9, 39, 43).

 

 

 

Tiết thứ ba

Tì-lô-giá-na Như Lai

Tì-lô-giá-na Như Lai là thần cách hóa của quang minh, tức là trí tuệ của Như Lai chiếu sáng khắp vũ trụ, phá tan vô minh tăm tối, tạo thành tướng công đức của Như Lai. Ngài đã ở thế giới hải vi trần số kiếp tu hạnh bồ-tát, tĩnh tu vi trần số đại nguyện, trang nghiêm thế giới Hoa Tạng, đầy đủ vi trần số tướng đại nhân, phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương. Các lỗ chân lông từ thân của Ngài hóa ra thân vân, dùng âm thanh vi diệu diễn thuyết vô biên khế kinh hải, nói báo thân Phật là nhân phát nguyệnthành tựu quả. Ngài đã trải qua kiếp số tu hành, phát nguyện vô số, thân tướng đầy đủ, cho đến thuyết khế kinh đều bất khả thuyết vi trần số, phải nên hiểu đây là ý nghĩa pháp thân Như Lai tuyệt đối vô hạn. Khảo sát về Như Lai chủ yếu từ phiếm thần luận, trụ xứ của Ngài là thế giới Hoa Tạng trang nghiêm cũng dựa trên phiếm thần quan, phải nên quan sát cõi nước trong toàn vũ trụ vô lượng quang minh. Thế giới Liên Hoa Tạng bắt đầu từ thuyết khai thiên lập địa theo phái Tì-thấp-nô (Viṣṇu) của Ấn Độ giáo; đồng thời, phong luân gìn giữ thế giới này, phong luân gìn giữ biển Hương Thủy, trong biển Hương Thủyhoa sen lớn, biển Hương Thủy cùng thế giới Ta-bà nương theo phong luân, thủy luân, địa luânthành lập là đồng một cấu tưởng. Chẳng những như thế, tầng mười ba của hai mươi tầng thế giới kia là thế giới Ta-bà; do đây, chúng ta có thể biết thế giới Hoa Tạng bao hàm cả thế giới Ta-bà.

Trong kinh Pháp hoa chỉ núi Linh Thứu là trụ xứ vĩnh viễn của Đức Phật. Kinh Duy-ma biến một đại thiên thế giới thành Tịnh độ, chỉ đối với một chỗ, một thế giới mà chỉ ra là Tịnh độ, nay bao hàm rộng khắp mười phương, bao gồm hai cõi Tịnh, Uế, lấy toàn cả vũ trụ làm Tịnh độ của Tì-lô-giá-na Như Lai. Hai kinh Hoa nghiêm Phạm võng đã triển khai đến chỗ viên mãn, thật là không nơi nào mà không đến được.

 

Tiết thứ tư

Thế giới Liên Hoa Đài Tạng của kinh Phạm Võng

Thế giới Liên Hoa Đài Tạng trong kinh Phạm võngthế giới Hoa Tạng trang nghiêm trong kinh Hoa nghiêm không hoàn toàn giống nhau. Trong bài kệ kinh Phạm võng quyển hạ ghi:

“Ta nay Lô-xá-na

Đang ngồi đài Liên Hoa

Trên nghìn cánh hoa sen

Lại hiện nghìn Thích-ca

Một cánh trăm ức cõi

Một cõi, một Thích-ca

Đều ngồi cội bồ-đề

Đồng thời thành Phật đạo.

Trăm nghìn ức như vậy

Ta là Lô-xá-na

Nghìn trăm ức Thích-ca

Đều đem vi trần chúng

Cùng đi đến chỗ Ta

Nghe Ta tụng giới Phật.

(Đại Chính, 24, 1003, hạ)

Cũng kinh này, quyển thượng ghi: “Bấy giờ, Đức Phật Thích-ca trụ trong đệ tứ thiền, ở cung trời Ma-hê-thủ-la (Mahesvara) đem theo đại chúngthế giới này, rồi trở về thế giới Liên Hoa Đài Tạng, trong cung Bách Vạn Ức Tử Kim Cang Quang Minh thấy Đức Phật Tì-lô-giá-na ngồi trên tòa hoa sen có trăm vạn ức cánh sen chiếu sáng rực rỡ. Khi đó, Đức Phật Tì-lô-xá-na bảo đại chúng: “Ta đã từng ở trong a-tăng-kì-kiếp tu hành tâm địa lấy đó làm nhân, vừa xả bỏ phàm phu liền thành Chính giác, hiệu là Lô-giá-na ở thế giới hải Liên Hoa Đài Tạng. Đài hoa sen này rộng lớn có một nghìn cánh, một cánh là một thế giới, thành một nghìn thế giới. Ta hóa thành một nghìn Thích-ca ở nghìn thế giới ấy, mỗi cánh một Thích-ca; lại có trăm ức núi Tu-di, trăm ức nhật nguyệt, trăm ức tứ thiên hạ, trăm ức Nam Diêm-phù-đề, trăm ức bồ-tát Thích-ca ngồi dưới trăm ức cây bồ-đề, một vị Thích-ca nói pháp tâm địa bồ-đề-tát-đỏa. Còn lại, chín trăm chín mươi chín Thích-ca, mỗi vị đều hiện nghìn trăm ức Thích-ca cũng lại như vậy. Đức Phật ngồi trên cánh hoa senhóa thân của Ta, nghìn trăm ức Thích-ca là hóa thân của nghìn Thích-ca đều lấy Ta làm bản nguyên, gọi là Phật Lô-xá-na. (Đại Chính, 24, 997, thượng).

Hoa sen lớn này có nghìn cánh hoa, một nghìn cánh hoa thành một đại thiên thế giới có trăm ức Tu-di cho đến trăm ức Diêm-phù-đề. Đức Phật Lô-xá-na ngồi kiết già trên đài hoa sen có nghìn cánh, mỗi cánh có một Đức Thích-ca; ở trăm ức cõi nước, dưới mỗi cây bồ-đề đều có một bồ-tát Thích-ca thuyết pháp môn Tâm địa bồ-đề-tát-đỏa. Nhưng nghìn Đức Thích-ca ngồi trên nghìn cánh sen là hóa thân của Lô-xá-na. Bồ-tát Thích-ca ở trăm ức cõi nước cũng là hóa thân của Đức Thích-ca, tức là bao hàm một nghìn đại thiên thế giới, lấy thế giới Liên Hoa Đài Tạng làm trụ xứ của Đức Phật Lô-xá-na. Hóa thân nghìn Đức Thích-ca của Lô-xá-na ở trong đó, hóa thân của Đức Thích-ca thành ở trăm ức bồ-tát Thích-ca cùng với thuyết thế giới hải Hoa Tạng trang nghiêm trong kinh Hoa nghiêm hoàn toàn không giống nhau.

Theo trong kinh Thế kỉ, Trường A-hàm, quyển 18 ghi: “Nghìn Tu-di cho đến nghìn tứ thiên hạtiểu thiên thế giới, một nghìn tiểu thiên thế giới tập hợp thành trung thiên thế giới, lại lấy một nghìn trung thiên thế giới tập hợp thành đại thiên thế giới. Tính ra như trên đã nói, trong đại thiên thế giới có trăm ức Tu-di cho đến trăm ức tứ thiên hạ, tức là tương đương một Đức Thích-ca ngồi trên một cánh sen.

Trong kinh Trường A-hàm, ghi: “Đại thiên thế giới này gọi là một Phật sát, hạn định là một phạm vi rất lớn của một Đức Phật giáo hóa. Nay kinh Phạm võng lấy một Đức Thích-ca ngồi trên cánh sen là hóa thân của Đức Phật Lô-xá-na; nhưng Phật Lô-xá-na ngồi kiết già trên đài hoa sen lớn bao hàm nghìn cánh sen kia.

Kinh A-hàm, ghi: “Phật Lô-xá-na đã hóa một cõi Phật rộng lớn gấp nghìn lần một Phật sát ”. Đây là lấy chân thân bất diệt của Đức Thích-ca, gọi là Phật Lô-xá-na, nói hiện tại mười phương xuất hiện Hằng hà sa vô lượng chư Phật là do Ngài hóa hiện. Điều này phát huy nghĩa chân thật của Phật-đà luận.

 

Tiết thứ năm

Thường Tịch Quang Độ của kinh Quán Phổ Hiền

Lại nữa, trong kinh Quán Phổ Hiền bồ-tát hành pháp ghi: “Thích-ca Mâu-ni còn được gọi là Tì-lô-giá-na, Hán dịch là Biến Nhất Thiết Xứ, trụ xứ của Đức Phật gọi là Thường Tịch Quang, do bốn đức thường, lạc, ngã, tịnh và các ba-la-mật thành lập. Thường Tịch Quang độ này cũng không ngoài Tịnh độ của Tì-lô-giá-na Như Lai. Kinh này tuy chưa nói đến tướng cõi này, nhưng khảo sát từ tên gọi Thường Tịch Quang thì biết đây là thế giới tịch tĩnh, quang minh rực rỡ, vĩnh viễn bất diệt nên đoán biết trụ xứ của Tì-lô-giá-na làm bằng ánh sáng là lẽ đương nhiên. Vì thế, nói phong luân của thế giới Hoa Tạng trong kinh Hoa nghiêm, cho đến mỗi thế giới phần nhiều đều có kèm theo danh từ Quang Minh. Nhân đây mà tạo thành ý nghĩa liên hoa, vì trong kinh Hoa nghiêm nói thế giới kia tên là Liên Hoa Tạng, nay ý nghĩa kinh này lấy theo nghĩa Quang Minh Biến Chiếu và còn gọi là Thường Tịch Quang.

Tóm lại, thân và độ của Đức Phậtliên quan với nhau, Phật-đà quan thấp kém thì Tịnh độ quan cũng thấp kém, nếu Phật-đà quan cao diệu thì Tịnh độ quan cũng cao diệu. Nếu chúng ta thấy thân Đức Phật Thích-ca thọ tám mươi tuổi thì cõi này là uế độ của Diêm-phù-đề; còn thấy Ngài sống mãi thì cõi này là Tịnh độ của Linh Sơn ra khỏi ba cõi. Nếu chúng ta thấy Tì-lô-giá-na là Quang Minh Biến Chiếu thì cõi này không thể không nói là thế giới Liên Hoa Tạng của Biến Nhất Thiết Xứ.

Tư tưởng Tì-lô-giá-na có lẽ là do người đời sau đề xướng, sau khi tư tưởng này hưng khởi thì Phật-đà luận cũng phát triển đạt đến giai đoạn cao nhất; đồng thời, cũng làm cho Tịnh độ quan đạt đến bậc cao nhất. Từ đó, thân Phật trải qua sanh thân quan, báo thân quan; lại từ báo thân quan chuyển đến pháp thân quan. Tuy luận điểm về Tịnh độphức tạp nhưng đại thể chỉ theo một con đường để phát khởi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11647)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11971)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11360)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12077)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12573)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10775)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9961)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10184)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15357)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15382)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12425)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11196)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12097)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10627)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12567)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14851)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12700)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16588)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12275)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11867)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13547)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11964)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11647)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12777)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15671)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13636)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12914)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18027)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11181)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9088)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13064)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10323)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12206)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10702)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant