Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Trúc Lâm

27 Tháng Mười 201000:00(Xem: 38110)
Thiền Trúc Lâm

DẪN KHỞI

Thiền học, trước hết là một nỗ lực tư duy trên đường tìm kiếm thực tính của thực tại. Nỗ lực đó đặt người học Thiền ở vào thế sống chết với chính mình trên chiếc cầu nối liền hai bờ Mê và Ngộ. Chính trên chiếc cầu này, người học Thiền thực hiện một cơn chết lớn, đi vào chỗ quyết định, phá hủy tất cả và thành tựu tất cả để sống dậy giữa đời trong một phong thái đặc biệt, bằng một nhãn quan "Kiến tính" đến triết đế, không còn bị trói buộc trong bất cứ một hình thái sai biệt nào của thế giới hiện tượng không ngừng sinh thànhhoại diệtthong dong tự tại như gió thổi, nước trôi. Nơi những con người đã đi qua cầu, đã trải qua cơn chết lớn này, ta có thể bắt gặp những khuôn mặt lạnh lùng đến tàn nhẫn, những thái độ đến cao ngạo đến ngông cuồng, những hành động khác thường đến kỳ quặc; những ngôn ngữ hiểm hóc đến kỳ bí….; hay cũng có thể, ngược lại hoàn toàn những gì vừa nói. Thiền Tông Trung Hoa cung cấp cho ta khá nhiều dữ kiện cho những hình ảnh loại này. Và Thiền tông Việt Nam cũng không phải là không có. 

Đứng trên lập trường luận lý, dưới cái nhìn của con mắt thịt, những hình ảnh như thế có thể là vô nghĩavô lý. Nhưng đứng trên lập trường "Kiến tính" của Thiền học, ở vào cái thế mặt đối mặt, tâm đối tâm, những hình ảnh đó phải được nhìn trong sự tác động của nó đối với tâm trí mê ngủ. Ơû đây, chúng trở thành những đầu đề khá quyến rũ cho nỗ lực tư duy. Chính cái hấp lực khá quyến rủ này đã là động cơ thức đẩy chúng tôi tìm hiểu nguồn suối Thiền. 

Nhưng, một trào lưu tư tưởng không thể thành hình bên ngoài những điều kiện bức bách của đời sống. Hay nói khác hơn, chính những điều kiện bức bách của đời sống đã là cái yêu cầu chân chính cho một trào lưu tư tưởng xuất hiện kể từ đó, mở ra những chân trời mới cho khát vọng của con người. Thiềnhọc dù không hẳn là một trào lưu tư tưởng thuần túy cũng không có ngoại lệ. Huống chi, chủ yếu của Thiền là đánh thức dậy, dựng đứng dậy cái con người mê ngủ từ bấy lâu nay bằng tất cả mọi phương tiện có thể được, miển sao thích hợp với cơ cấu tâm lývật lý của đối tượng. Như thế, theo những điều kiện của đời sống, của cơ cấu tâm lývật lý của con người Việt Nam và với khát vọng của nó, Thiền học Việt Nam phải thích hợp với con người ở đây, phải có riêng cho nó những nét độc đáo để giải quyết thỏa đáng những mâu thuẩn nội tại của con ngườicộng đồng dân tộc Việt Nam, để thoả mãn những yêu cầu, khát vọng của nó. Đây là cái ý thức dẫn đạo cho chúng tôi, trong khi tìm hiểu Thiền, đã chú tâm học hỏitìm hiểu Thiền học Việt Nam 

Hẳn nhiên, trên con đường học hỏitìm hiểu này, chúng tôi không thể không nghĩ đến, dòng Thiền Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi, Vô Ngôn ThôngThảo Đường, những dòng Thiền đã mở ra những chiều hướng khá đặc biệt cho truyền thống Thiền học Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi đã chọn Thiền học Trúc Lâm Yên Tử làm đối tượng cho sự học hỏitìm hiểu của mình. Điều đó không phải là không có lý do:

-Trước hết, trên phương diện lịch sử, Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt, nhất là về đường sáng tạo của tư tưởng và về cái tinh thần Thiền học đặc biệt của nó. Một người vừa là Thiền sư, vừa là một bậc đế vương, nắm giữ vận mệnh của đất nước, thực là một sự kiện hy hữu torng lịch sử Thiền họcchúng ta phải thấy bằng tất cả sự nghiêm cẩn.

-Sau nữa, trên phương diện tư tưởnghành trì; Trúc Lâm Yên Tử đã là phái Thiền qui kết, thống hợp được mọi trào lưu tưởng lưu lộ từ trước và đương thời, làm nổi bật được cái tính chất toàn thểNhất quán trong truyền thống tư tưởng Việt Nam; dung hòa một cách vô cùng tốt đẹp giữa lý tưởng quốc gialý tưởng tôn giáo, giữa đời và đạo, giữa cánhân và tập thể, hay nói cách khác, giữa khát vọng của tâm linh mình với cái khát vọng chung của tập thể mà đời sống của Trần Thái Tông, người mở đường cũng như của Tam Tổ đã là những thể hiện viên mãn. Từ đó, Thiền Trúc Lâm thực đã mở ra một con đường thích hợp cho hậu thế thấy đâu là cái ý nghĩa sống còn của cá nhân trong sự sống còn của tập thể. Đồng thời, Thiền Trúc Lâm với phương pháp Thiền Bái sám trong khi vẫn không chối bỏ Thiền Công án là một sắc thái đặc biệt khác, không phải là không đáng nói đến.

Thêm vào đó, trên phương diện tín ngưỡng dân gian và trong lãnh vực văn học, Thiền Trúc Lâm đã có những đóng góp khá lớn lao để xây dựng một nếp tín ngưỡng dân tộc, một phong thái bút pháp văn học đặc biệt, thích hợp với cái cảm quan đa diện và nếp sống khốn khó mọi bề của con người Việt Nam.

Trên đây là những đặc trưng của Thiền Trúc Lâmchúng tôi cho đó cũng là những đặc trưng của đạo Phật và còn của tinh thần dân tộc Việt Nam. Sự tìm hiểu về Thiền Trúc Lâm, vì thế là một cố gắng đi tìm trở lại cái bản sắc đặc biệt của Đạo Phật và của tinh thần dân tộc Việt Nam trong chính cao điểm thành tựu của nó là Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Hẳn nhiên, đây chỉ là một cố gắng khiêm tốn của một khả năng giới hạn nhỏ bé. Con đường trước mặt còn chờ đợi nhiều khai phá từ những đầu óc bậc thầy khác mà chúng tôi tin tưởng sẽ có. Để từ đó, khả dĩ mở ra chân trời giải thoát cho cơn bế tắc khủng hoảng về tinh thần hiện nay của dân tộc ta.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11674)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12000)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11143)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11386)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12099)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12590)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10803)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18029)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11756)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9980)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10213)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12386)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15397)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11276)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14366)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12144)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15419)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12039)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12452)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11226)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12130)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10659)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12580)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13206)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14884)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12740)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16615)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19722)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13147)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12694)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12300)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11907)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10945)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13566)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11986)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11884)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11670)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12796)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14569)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12662)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15702)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13659)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12936)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9910)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18048)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11215)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9113)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12221)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13090)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10347)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12232)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15355)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16650)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12252)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11518)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14312)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19753)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14207)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24661)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10726)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant