Tsongkhapa
ĐẠI LUẬN VỀ
GIAI TRÌNH CỦA ĐẠO GIÁC NGỘ
Tập 3
(Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Đại Luận – Quyển Hạ)
Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
༄༅༎ བྱང་ཆུབ་ལམ་རིམ་ཆེན་མོ་། །།ཀ།།
རྗེ་ཙོང་ཁ་པ་བློ་བཟང་གྲགས་པ༎
Phần II: Tuệ Giác
Chương 21: Phê Phán của Chúng Tôi
về Y Tự Khởi
Không Ảnh Hưởng Đến các Luận Điểm của Chúng
Tôi
(b')) Tại sao những lỗi sai chúng tôi tìm
thấy trong các luận điểm Y Tự Khởi này không áp dụng cho chúng tôi
(b)) Theo hệ thống
nào để
phát triển quan điểm trong dòng tâm thức của
các ngươi
–––––––\––––––
(b')) Tại sao những sai
sót chúng tôi
tìm thấy trong
các luận
điểm Y Tự Khởi không áp dụng cho chúng tôi
Có
phải các
luận điểm của chúng tôi không
có cùng loại sai sót mà
chúng tôi tìm thấy trong luận điểm của phía
khác, chẳng hạn như các chủ thể và
lý lẽ không được xác lập? Và nếu
chúng có được xác lập, ta có nên tránh hạn chế việc tìm kiếm mâu thuẫn trong các luận điểm của những phía khác hay không?
Lý
do những
phía
khác có các sai sót đó nằm ở chỗ sự chấp nhận của họ về các luận điểm Y Tự Khởi. [Minh Cú
Luận] nói rằng vì chúng tôi không chấp nhận các luận điểm Y Tự Khởi, nên chúng tôi không có những sai lạc đó. Ở đây, thuật ngữ “các luận điểm" chỉ đến các phép suy luận. Nếu các ngươi chấp nhận phép
suy luận Y Tự Khởi, thì các ngươi phải chấp nhận
rằng cả hai phía
đồng ý là có những nhận thức hiệu quả mà vốn có hiệu lực trong khuôn khổ tự tính.
Do đó, nhất
thiết phải
chứng minh điều cần minh chứng qua
việc có
cả hai phía
xác lập cả ba tiêu chí với những nhận
thức hiệu quả
không sai lạc đó.
Nhưng vì các
nhận thức hiệu quả như thế không
tồn tại, nên
chủ thể và các bộ phận khác của phép suy luận Y Tự Khởi không thể được xác lập.
Nếu các ngươi không chấp nhận các phép suy luận Y Tự Khởi, thì các ngươi có thể
cho phép các nhà Bản Chất Luận sử
dụng loại nhận thức hiệu quả đó
để
xác lập chủ thể, v.v…, nhưng tự chính
các ngươi không cần xác lập chủ thể,
v.v… với những nhận thức hiệu
quả đó. Do vậy, các luận điểm được tìm thấy trong các văn
bản như Minh Cú Luận là "các luận điểm dựa trên những gì phía bên kia chấp nhận"; mục đích duy nhất của họ là để bác bỏ luận thuyết của bên kia. Chúng không phải là luận điểm Y Tự Khởi.
Ví dụ, chương thứ ba của Căn Bản Trung Luận của ngài Long Thọ nói:[1]
Thị
giác
không thấy
Tự chính nó. [712]
Làm thế nào những gì không tự thấy mình
Có
thể thấy được những gì khác
hở?
Điều này giống như luận điểm vốn sử dụng việc không nhìn thấy tự chính mình của con mắt như là một lý do để chứng
minh rằng con mắt không nhìn thấy các thứ khác. Trong trường hợp này, lý lẽ được chấp nhận bởi phía khác trong
khi các nhà Trung
Quán tông cũng chấp nhận luận thuyết này – rằng việc nhìn thấy những sự vật khác thiếu sự tồn tại
nền tảng. Một phép suy luận như thế
được gọi là "một suy luận dựa trên những gì người khác chấp nhận". Minh Cú Luận của Nguyệt Xứng khẳng định:[2]
Chúng tôi không sử dụng các luận điểm Y Tự
Khởi vì sự bác bỏ các luận thuyết của các phía khác là hiệu quả duy nhất của các luận điểm của chúng tôi.
Điều này có nghĩa rằng các phép suy luận mà ngài Nguyệt Xứng sử
dụng không phải là phép suy luận Y Tự Khởi. Ngài không
nói rằng mình
không sử dụng phép suy luận, vì
ngài có chấp nhận những ai chỉ dùng sự bác bỏ các luận thuyết của người khác làm mục đích duy nhất của họ. Đoạn
kế liền sau đó của Minh Cú Luận nêu
ra cách thức ngài sử dụng các phép suy luận để bác bỏ các luận thuyết của họ:[3]
Những ai nghĩ rằng con mắt nhìn thấy những
thứ khác cũng bảo lưu
rằng, mắt không nhìn thấy chính nó. Họ cũng tin rằng nếu mắt không có đủ phẩm chất nhìn thấy những thứ khác, thì nó sẽ không nhìn thấy. Vì vậy, chúng tôi tranh biện:
"Bất cứ điều gì mà không thấy chính mình cũng không nhìn thấy các
thứ khác, như trong trường hợp của cái ấm. Con mắt cũng không thấy chính nó, do vậy, mắt cũng không thể nhìn thấy những thứ khác. Do đó, sự thấy các thứ khác của mắt, chẳng hạn như màu xanh, mâu
thuẫn với việc không thấy chính
nó. Lập thuyết của ngươi mâu thuẫn bởi luận điểm này vốn dựa trên điều mà ngươi
chấp nhận”.
Đây là cách thức để
một luận điểm, vốn được xác lập cho họ, bác
bỏ lập thuyết của họ.
Khi
"điều các ngươi chấp nhận" hướng đến đối phương, thì nó cũng giống
hệt như việc nói rằng "điều người khác chấp nhận" từ quan điểm của
người đề xuất Trung Quán.
Đây là thủ tục của chúng tôi trong việc bác bỏ
các
quan niệm sai lầm bằng cách khẳng
định
một phép suy luận dựa trên những gì người khác chấp nhận. Vì điều này rất quan trọng, nên ta sẽ
giải thích chi tiết. Cụm từ, "điều đó xác lập cho họ", ở cuối của đoạn văn đó không có
nghĩa là chúng tôi, trong hệ thống
của mình, không chấp nhận (1) chủ thể - con mắt, (2) ví dụ – cái ấm, (3) lý do – mắt không nhìn thấy chính nó, và (4) đặc tính cần chứng minh – nó không nhìn thấy màu xanh, v.v... Cũng không có nghĩa là lý lẽ, sự truyền dẫn, và
v.v… chỉ được xác lập cho đối phương vì chúng đơn giản
là những gì người khác khẳng định. [713]
Điều
đó có
nghĩa là gì? Mặc dù chúng tôi chấp
nhận bốn điều này {các thành
phần của phép luận lý} trong hệ thống riêng của mình, nhưng hệ thống của chúng tôi không có, thậm chí ở mức thường tục,
một nhận thức hiệu quả vốn xác lập bốn điều này và {nhận thức hiệu quả đó} vốn
hiểu biết các
đối tượng của nó là tồn tại một cách nền tảng. Đối với những người ủng hộ tự tính, việc xác lập chủ thể, v.v… chắc chắn phụ thuộc vào những điều đang được xác lập bởi loại
nhận thức hiệu quả này.
Vì vậy, không có nhận thức hiệu quả nào vốn hiểu đối tượng của nó như hiện hữu một cách nền tảng lại có
thể xác lập một trình hiện
chung của chủ thể, v.v… cho cả hai phía. Do đó, chúng bị cho là không được xác lập cho cả hai phía; chúng bị
cho là dựa trên những gì được chấp nhận bởi hoặc được xác lập cho
những phía
khác.
Truy vấn:
Nếu các nhận
thức hiệu quả như thế không
tồn tại ngay cả ở mức thường tục,
thì lý lẽ mâu thuẫn với việc chấp
nhận những gì mà chúng
xác lập cho đối phương, giống như nó
mâu thuẫn với sự gán đặt thêm của tự
tính. Vậy thì làm
thế nào Ngài có
thể tìm thấy quan điểm Trung Quán dựa
vào lời chứng thật
của chúng? Vì, nếu đã có thể tìm thấy một cái nhìn triết
học chính xác sử dụng các luận điểm mà nhận thức hiệu
quả mâu thuẫn,
thì Ngài có
thể sử dụng tất cả các loại giáo lý không chính xác để tìm ra một quan điểm như thế.
Đáp:
Trong trường hợp này, ngay cả hệ thống riêng của chúng tôi chấp nhận sự tồn tại một cách thường tục của các đối
tượng mà vốn đối
phương lại nhận hiểu như
đang hiện
hữu, cụ thể là, (1) chủ thể – con mắt, (2) lý lẽ – nó
không nhìn thấy chính mình,
(3) ví dụ – cái ấm, và (4) điều cần chứng minh – nó không cảm nhận được màu xanh và v.v… Vì vậy, lý lẽ không mâu thuẫn với các đối tượng
này. Tuy
nhiên, vì đối phương thất bại trong việc
phân biệt giữa sự tồn tại và sự tồn tại tự tính của các đối tượng đó, nên lý lẽ thật có sự mâu thuẫn với ý tưởng mà nhận thức hiệu quả xác lập các đối tượng mà ý tưởng đó hiểu như là tồn
tại nền tảng.
Tuy nhiên, lý lẽ không thể bác bỏ những gì
được xác lập bởi các thức
thường tục không
khiếm khuyết
trong dòng tâm thức của
đối phương. Cho nên,
vì hệ thống Bản Chất Luận và hệ
thống
của chúng tôi không tương thích về
việc liệu có tri kiến
hiệu quả vốn
hiểu biết về
các đối tượng là tồn tại tự tính hay không, nên chúng tôi không chứng minh các điều đó với họ bằng các luận điểm Y Tự Khởi mà đúng hơn, chúng tôi chỉ đơn giản phơi bày những mâu
thuẫn bên trong các khẳng định của chính họ.
Làm thế nào điều này được thực hiện? Hãy để chúng tôi lấy ví dụ đề cập bên trên[4] về một phép suy luận dựa trên những gì phía khác chấp nhận. [714] Lý lẽ – tức là, chủ thể, đó là mắt, không nhìn thấy chính nó – có
tồn tại một cách ước lệ, nhưng một cách nền tảng việc
thấy các pháp như
màu xanh không tồn tại ngay cả ở mức ước lệ. Do đó, điều ban đầu [mắt không nhìn thấy chính nó] có thể được sử dụng để bác
bỏ điều thứ đến.
Trong trường hợp của mắt, (1) lý lẽ, không
nhìn thấy chính nó, và (2) điều
cần chứng minh của sự bác bỏ, việc không nhìn thấy những thứ khác,
hoặc là như nhau ở chỗ cả hai đều tồn tại
hoặc như nhau ở chỗ cả hai đều không tồn tại. Vậy làm thế nào một trong chúng có thể mâu thuẫn với sự tồn tại
của điều kia?
Vì vậy, trong một phép suy luận dựa trên sự chấp nhận của người khác, thì chủ thể, điều cần chứng minh, và lý lẽ phải là các thứ vốn tồn tại một cách thường
tục; chỉ đơn thuần với dữ kiện một đối phương cho rằng
một pháp nào đó
tồn tại là chưa
đủ.
Các đối phương tự
mình chấp nhận sự tồn tại của các đối tượng đó,
chẳng hạn như mắt, cũng như là
những
lý lẽ và ví dụ. Thế nên, tại sao nhà Trung Quán cần phải chứng minh cho các đối phương? Nếu họ không trung thực
không nhận những gì họ thực sự chấp nhận, và
nói: "Vì chúng không được
xác lập cho chúng tôi, xin vui lòng xác lập chúng", điều
đó sẽ có nghĩa là không có điều gì mà
họ đã không sẵn sàng để
chối bỏ và
sẽ là vô nghĩa khi tranh luận với họ. Nào ai có
bao giờ khả dĩ
giúp được họ?
Phản biện: Ngài cho là việc phơi bày một mâu thuẫn giữa khẳng định của các đối phương rằng con mắt không nhìn
thấy tự
chính nó và khẳng định của các đối phương rằng việc nhìn thấy màu xanh của mắt và v.v… có bản chất nền tảng hoặc tự tính.
Nhưng loại nhận thức nào
hiểu được mâu thuẫn? Nếu nó là một nhận thức hiệu quả vốn xác lập mâu thuẫn, thì nó sẽ phải xác lập mâu thuẫn cho cả hai bên, do
đó, nó sẽ không được "dựa trên những gì người khác chấp nhận". Nếu Ngài thừa nhận mâu thuẫn này
chỉ đơn giản bởi trạng thái đang được khẳng định của nó, thì vì
các đối
phương chấp nhận việc
mắt không nhìn thấy chính nó và
việc mắt nhìn thấy một cái gì khác là không mâu thuẫn, thật không có cơ sở để sử dụng khẳng định của họ nhằm thừa nhận một mâu thuẫn. Nếu Ngài thừa nhận chúng như là mâu thuẫn trên cơ sở khẳng định của riêng Ngài, thì điều này dẫn đến sự vô lý hoàn toàn. Làm thế nào Ngài có thể nói với các đối phương rằng thật không đúng khi họ
chấp nhận hai lập thuyết này như là
không mâu thuẫn bởi vì Ngài
khẳng định rằng chúng
đang mâu thuẫn?
Đáp: Lập thuyết của chúng tôi không bị lỗi này.
Việc mắt không nhìn thấy chính nó mâu thuẫn với việc có một tự tính hay một bản
chất nền tảng của mắt;
nhận thức hiệu quả xác lập mâu thuẫn này, vì vậy điều đó không được
thừa nhận thông qua việc đang được khẳng định một cách đơn giản.
Truy vấn:
Nếu có thể chỉ
dạy nhận thức hiệu quả đó cho
các đối phương và để sau đó họ nắm chắc
chắn được điều
mâu thuẫn, thì tại
sao cần thiết phải dựa vào những gì họ chấp nhận?
Đáp: Để cho một điều nào đó là một nhận thức hiệu quả vốn chứng minh được sự mâu thuẫn, như
các nhà Bản Chất Luận nhìn thấy
điều đó, thì nhận thức đó phải hiểu được một đối tượng tồn tại một cách nền tảng. [715] Nhưng làm thế nào chúng tôi có thể
chứng minh mâu thuẫn đó bằng cách chấp nhận riêng cho chúng tôi một điều nào đó mà vốn không tồn tại? Một
khi chúng tôi đã chỉ cho
họ rằng
không có mâu thuẫn trong việc chấp nhận
một điều gì
đó như là một nhận thức hiệu quả
ngay cả khi đối tượng của nhận
thức đó
thiếu tự tính hay thiếu bản chất nền tảng, thì loại nhận thức hiệu quả này sẽ chứng minh điều đó cho họ. Sau đó, họ sẽ tìm thấy quan điểm nhận biết các
pháp đều thiếu vắng tự tính. Vì vậy, tại điểm
đó sẽ không còn cần thiết để
chứng minh với họ rằng nếu một thứ gì đó không nhìn thấy chính nó, thì điều này mâu thuẫn với việc nhìn thấy một cách nền tảng của
nó.
Do đó, nếu các ngươi muốn hiểu hệ thống của Nguyệt
Xứng, các ngươi nên phân tích chi
tiết những
điểm này và đào sâu ý nghĩa của chúng.
Truy Vấn:
Nhưng làm sao Ngài sử dụng những gì họ chấp nhận để chứng minh những công năng của các
truyền
dẫn, rằng những gì không thấy chính
nó thì không thấy các vật khác một cách nền tảng?
Đáp:
Điều này nên được giải thích như trong Phật Hộ Căn Bản Trung Quán Luận Thích:[5]
Ví dụ, thông qua kết hợp với nước, đất được nhận thấy là ướt; thông qua liên hợp với lửa, nước được cảm thấy là nóng, và thông qua liên hợp với hoa nhài, vải được coi là có mùi
thơm. Chúng ta thấy rằng những nhận thức đó của đất như ướt,
v.v… là phụ thuộc vào các nhận thức về sự ướt, nóng, và hương thơm trong nước, lửa, và hoa nhài một cách tương ứng. Đây là điều mà các ngươi tự mình
chấp nhận. Tương tự vậy, nếu các
sự vật đã
có một số tự tính hay bản chất nền tảng, thì các
ngươi sẽ phải nhận thức được tự tính đó trong mối
liên hệ đến chính sự vật, và chỉ sau đó ngươi mới có thể
nhận thức nó trong một sự vật liên hợp nào khác. Nếu đầu tiên các ngươi không cảm nhận được điều đó trong sự vật tự nó, thì, khi nó liên hợp với sự
vật
khác, làm thế nào các ngươi có thể nhìn thấy nó ở đó? Ví dụ, nếu các ngươi
không cảm nhận được một mùi hôi trong hoa nhài, thì các ngươi sẽ không cảm nhận
được một mùi hôi thối trong
vải vốn đã
được liên hợp với chúng.
Bằng
cách sử
dụng các ví dụ chấp nhận được và
quen thuộc với đối phương của mình, Phật Hộ đã dẫn dắt họ
đến điều
chắc chắn về sự truyền dẫn và sự phản truyền dẫn và sau đó áp dụng chúng cho trường hợp đang xét. Nếu mắt đã có một nền tảng thị giác nào đó, thì cái thấy của nó về
chính nó
nên được nhận biết trước
tiên, và chỉ sau đó
thì nó sẽ có thể nhận thấy rằng nó nhìn thấy các pháp như sắc
tướng,
và nhận thấy
rằng nó thấy thành phần của sắc
tướng trong
các pháp cấu hợp.
[716] Nhưng vì mắt không nhìn thấy chính nó, nên nó
không nhìn thấy những thứ khác
{là điều vô lý}.
Đây là cách chúng tôi chứng minh sự truyền dẫn bằng cách sử dụng những gì phía khác chấp nhận.
Ngoài ra, Tứ
Bách Kệ Tụng của Thánh Thiên tuyên thuyết:[6]
Nếu các bản
chất của tất cả các pháp
Trình
hiện trước tiên nội trong tự chính các pháp đó,
Thì, tại sao mắt
Lại
không
thể thấy được chính
nó?
Phản biện: Lửa đốt cháy những thứ khác, mặc dù nó không đốt cháy chính nó. Tương tự như
vậy, không phải là mâu thuẫn khi
mắt nhìn thấy
những thứ khác, mặc dù nó
không nhìn thấy chính nó.
Đáp:
Chúng tôi không bác bỏ một cách rộng rãi rằng
lửa đốt cháy
nhiên liệu hoặc rằng mắt
chỉ nhìn thấy các sắc tướng; thay vào đó chúng tôi bác bỏ rằng mắt một cách nền tảng nhìn thấy các vật khác. Vì điều này là như vậy, nên ví
dụ của các ngươi sẽ phải là
lửa một cách nền tảng đốt cháy nhiên liệu. Do đó, ví dụ của các ngươi là sai, cũng giống như những gì các
ngươi đang cố gắng chứng minh là sai. Nếu cả lửa
và nhiên liệu có tự tính hoặc bản chất nền tảng, thì chúng sẽ phải hoặc có cùng một bản chất hoặc có các bản chất khác nhau; thế thì điều nào là đúng? Nếu chúng có cùng một bản chất, thì lửa
sẽ đốt cháy chính nó[7];
cũng vậy, làm thế nào khả dĩ lửa là tác nhân đốt cháy và nhiên liệu là
đối tượng bị cháy? Giả sử các ngươi đã nhấn mạnh rằng chúng có thể [xảy ra] được. Nếu ai đó tranh luận rằng lửa là đối tượng bị cháy và nhiên liệu là tác nhân đốt cháy, thì các ngươi có thể đưa ra bác bỏ gì? Nếu chúng có các
bản
chất khác nhau, thì lửa
có thể hiện diện ngay cả khi không
có nhiên liệu, cũng giống như các
con
bò có thể có mặt mà không có
các con
ngựa. Như Tứ Bách Kệ Tụng của Thánh
Thiên tuyên thuyết:[8]
Lửa đốt thứ gì, thứ đó nóng.
Nếu vật gì không nóng, làm thế nào nó có thể bị cháy?
Vì
vậy, không có gì được gọi là "nhiên liệu" tách biệt khỏi lửa[9],
Và ngoại trừ với nhiên liệu
đó, có thể không có lửa.
Vậy, nếu các ngươi cho rằng việc cháy có bản chất nền tảng hay tự tính, thì việc này kéo theo rằng vật gì không tự đốt
cháy chính nó sẽ không thể đốt cháy các vật khác. Tương tự như vậy, nếu các
ngươi cho rằng mắt có việc thấy
như là tự tính của nó, thì các ngươi phải chấp nhận rằng nếu nó không
nhìn thấy chính nó, thì nó
không thể nhìn thấy những thứ khác. Do đó, các sai sót trên không lay chuyển. [717]
Khi
người ta thấy các phê phán như thế về niềm tin vào tự tính, người ta sẽ từ bỏ
các tôn chỉ hàm chứa về sự tồn tại tự tính hay bản chất nền tảng. Sau đó người
ta có thể hiểu rằng các đối tượng và tác nhân là có thể biện hộ {khả biện}
trong sự thiếu vắng của tự tính; do đó, người ta phân biệt sự khác nhau giữa sự
vắng mặt của tự tính với sự không tồn tại. Vì vậy, người ta cũng phân biệt giữa
sự tồn tại tự tính với sự tồn tại, nên người ta biết được rằng các nhận thức
hiệu quả vốn không có tự tính nắm bắt các đối tượng {cũng} vốn không có tự
tính, và v.v…
Truy vấn: Các nhận thức hiệu quả vốn biết rằng lửa và nhiên liệu thiếu vắng tự tính không thể là các cảm nhận, và do đó Ngài phải tin rằng chúng là các
suy diễn.
Nếu thế, thì chúng dựa vào lý luận gì?
Đáp:
Nếu các thứ như lửa và nhiên liệu
có tự tính, thì các tự tính đó phải là giống nhau hoặc khác nhau. Sau khi
các ngươi đã thấy điều này, thì
các
ngươi thấy rằng một phản bác về các tự tính vốn là giống nhau cũng như về các tự tính vốn là khác nhau đều
phải kéo theo sự thiếu vắng của tự tính. Điều này đáp ứng hai tiêu chí đầu tiên của
một lý lẽ đúng. Sau đó sự xác định rằng không có tự tính vốn là cùng một loại hay khác
nhau thỏa mãn tiêu chí thứ ba, sự trình bày của lý lẽ trong chủ thể. Vì vậy, đó là một lý lẽ thỏa mãn ba tiêu chí để trở thành một lý lẽ
chính xác có khả năng dẫn đến
kiến thức suy luận. Căn cứ vào lý lẽ đó, người ta chắc chắn rằng lửa và nhiên liệu thiếu tự tính; sự khẳng định này là một suy luận. Trong trường hợp của
phép suy luận được thừa nhận
trước đây đã dựa trên những gì người khác chấp nhận, các ngươi nên hiểu rằng
chúng ta sử dụng cùng một phương
pháp này để phát triển ba tiêu chí và sự suy diễn tương ứng.[10]
Trong dạng
thức Quy Mậu,
luận điểm hoạt dụng
như sau: "Nếu lửa và
nhiên liệu có tự
tính, thì chúng {các tự tính
đó} sẽ
phải hoặc
giống nhau hoặc khác nhau", và
"Nếu chúng giống nhau, thì lửa sẽ đốt cháy chính nó", và v.v… Hình thức này sử dụng một điều mà bên
kia chấp nhận như là một lý lẽ, tạo ra các hàm ý ngược lại với các tín điều của
phía khác. Ví
dụ này cũng sẽ cho phép các ngươi hiểu làm thế nào để kiến lập các luận điểm Quy Mậu khác.
Vì
vậy, chừng nào những
đối phương đó chưa từ bỏ các
giáo lý Bản Chất Luận
của họ, thì họ vẫn tiếp tục tin rằng các nhận thức hiệu quả xác lập các đối tượng suy diễn của nhiều bộ phận khác nhau trong một phép suy luận dựa trên kiến thức về các pháp tồn tại
vốn một cách nền tảng. Giây phút mà họ thấy biết với nhận thức hiệu quả về tính phi nền tảng của mọi thứ, họ sẽ từ bỏ
các giáo lý Bản Chất Luận của mình. [718] Minh
Cú Luận khẳng định:[11]
Truy
vấn:
Tuy nhiên, sự phản bác của các nhà Bản
Chất Luận có sử dụng một suy luận hay không, trong đó chủ thể, v.v… được
xác lập một cách suy luận ít
nhất từ một trong hai phía, ngay cả khi không cho cả hai phía?
Đáp:
Có. Phản bác đó sử
dụng một lý luận được
xác lập cho chính các
nhà Bản Chất Luận, và không phải một lý luận xác lập cho bên khác [tức là
cho
Trung Quán tông], vì đó là những gì được nhìn
thấy trong thế gian. Trong thế gian, đôi khi người
thắng và kẻ thua trong một tranh chấp được quyết định thông qua lời chứng thực của một nhân chứng mà hai bên chấp nhận như
là đáng tin cậy. Tuy nhiên, đôi khi điều này có thể được quyết định bằng cách chỉ sử dụng các lời chứng thực của
chính họ, mà không cần sự chứng thực của ai khác để xác định bên nào thắng hay
thua.
Điều này đúng trong lĩnh vực lý luận triết học cũng như trong
thế gian, vì nó
chỉ là quy ước của thế gian mà
vốn là
phần cột trụ
trong các giáo pháp triết học.
Điều này đưa ra một ví dụ và một giải
thích để chỉ ra
rằng các lý lẽ
dựa trên những gì người khác chấp nhận là phù hợp.
Các nhà luận lý học cho rằng ba tiêu chí và chủ thể, v.v…
phải được xác lập cho cả người đề xuất lẫn
đối phương, vì họ bảo rằng bất
kỳ nhận thức hiệu quả nào được sử
dụng để xác lập ba tiêu chí, v.v…
cho đối phương cũng phải xác lập những điều này cho người đề xuất. Nguyệt Xứng bác bỏ điều
đó. Cùng một bản luận trên
khẳng định:[12]
Phản biện: Một người có thể chứng minh hay bác bỏ một mệnh đề về một điều gì đó vốn
xác định cho cả hai bên. Nhưng Ngài
không thể làm được điều này, khi Ngài cho rằng có sự nghi
ngờ về việc liệu rằng
chủ thể, v.v… có được xác lập cho một hoặc cho cả hai bên hay không.
Đáp:
Ngay cả các ngươi những người nghĩ theo cách này nên chấp nhận phương pháp mà
chúng tôi ủng hộ, cụ thể là, suy luận đó là dựa trên quan điểm của thế gian về các pháp. Điều này có nghĩa là khi các ngươi sử dụng Kinh điển để bác bỏ một điểm nhất định, thì các ngươi không nhất thiết phải sử dụng các kinh
điển vốn chỉ
có thể chấp nhận được bởi cả hai bên. Tại sao không?
Bởi vì các ngươi có thể sử dụng những điều mà
chỉ có họ chấp nhận.[13]
Những gì chúng tôi suy luận từ
các ý tưởng
riêng của đối phương sẽ luôn luôn được xác lập cho các đối phương. Phương pháp
này là đáng tin cậy, trong khi
việc cố
gắng xác lập một điều gì
đó cho cả hai bên thì không
{thể có}.
Đó là lý do tại sao các định nghĩa của các nhà luận lý học là dư thừa, vì những vị Phật giúp các đệ tử là những ai vốn không hiểu biết thực tại nương theo
việc sử dụng những gì mà
những cá nhân đó
nắm bắt hoặc chấp nhận. [719]
Vậy,
khi các lý lẽ đó được sử dụng để chứng
minh điều cần chứng minh được
xác lập cho cả hai phía với loại nhận thức hiệu quả được giải thích trước đây, thì đây là một lý lẽ Y Tự Khởi [hoặc "svâtantra"]. Khi lý lẽ không được xác lập theo cách đó và điều cần chứng minh được chứng minh bằng cách
sử dụng ba tiêu chí mà bên khác, tức đối
phương, chấp nhận như đang được trình bày, thì điều này cấu thành phương pháp Cụ Duyên. Thật
khá rõ ràng rằng đây là những gì đại sư Nguyệt Xứng chủ định.
(b)) Hệ thống nào cần
theo để phát triển quan điểm trong dòng tâm thức của các ngươi
Các nhà
Trung Quán tông vĩ đại là những
người theo thánh giả
Long Thọ và người con tinh thần
của ngài là Thánh Thiên chia thành hai hệ thống
khác nhau: Cụ Duyên và Y Tự Khởi. Chúng tôi
theo bên nào? Ở
đây, chúng tôi là các học trò của hệ thống Cụ Duyên. Hơn
nữa, như đã giải thích trước đây, chúng tôi
bác bỏ tự tính hoặc bản chất nền tảng ngay cả ở mức thường tục; nhưng tất cả những gì đã được dạy về luân hồi và Niết-bàn phải hoàn toàn tương thích với điều bác bỏ đó. Do vậy, các ngươi nên tìm
đến tri kiến chắc chắn cả về cách thức sự
tồn tại nền tảng bị phủ nhận lẫn cách thức mà Niết-bàn và Luân hồi vẫn khả dĩ.
Các văn bản của hai bậc thầy này thường nói rằng các ngươi nên tiến hành phân
tích hợp lý vốn kiểm nghiệm cẩn thận
về việc các pháp sẽ
ra sao nếu
chúng đã
được chấp nhận như là tồn tại tự tính hay nền
tảng. Vì thấy rằng các bản luận của thánh
giả và
con trai tinh thần của ngài
đều tương thuận đầy đủ về điều này, nên ta
chấp nhận hệ thống đó. Theo đó, thật là rõ ràng rằng các ngươi nên chấp nhận
lập thuyết Cụ Duyên
như được giải thích ở trên.
BA556
PPs: 35.5-36; D3796: Ha llb3-6..
. 547
Chương 8: Ba Loại Người
2. Làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
a. Làm thế nào
để phát triển tri thức tổng quát một cách chắc chắn về lộ trình tu tập
1) Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2) Vì sao các đệ
tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
a) Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
b) Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo những giai đoạn như vậy
i)
Nguyên nhân thật sự
ii)
Mục đích
––––\––––
2. Làm thế nào để tận dụng lợi thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên
Việc làm thế nào để tận dụng lợi
thế của một cuộc sống an lạc và thuận duyên được trình bày trong hai phần:
- Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát về lộ trình
một cách chắc chắn
- Phương pháp thật sự để tận dụng lợi thế của một cuộc sống
an lạc và thuận duyên (Chương 9 và tiếp theo)
a. Làm thế nào để phát triển tri thức tổng quát
một cách chắc chắn về lộ trình
Phương thức phát triển tri thức
tổng quan một cách chắc chắn về lộ trình gồm hai phần:
1. Nội dung bao
hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại người như thế nào
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn luyện dành cho ba loại
người
1) Nội dung bao hàm của tất cả kinh điển về các lộ trình của ba loại
người như thế nào
Ở lúc bắt đầu, một người muốn trở
thành một vị Phật sẽ phát triển tâm Bồ-đề; ở giai đoạn giữa, người này tích lũy
các công đức và trí tuệ tối thượng; và cuối cùng, người này chứng được Phật quả
toàn hảo. Tất cả những hành động này chỉ nhằm đến mục tiêu hạnh phúc cho chúng
sinh. Vì thế, tất cả những giáo pháp một vị Phật đưa ra chỉ giản dị là nhằm đạt
đến lợi ích cho chúng sinh. Điều này tức là, lợi ích của chúng sinh chính là
điều quý vị nên đạt được. [87] Lơi ích này bao gồm hai phần: mục tiêu tạm thời
về việc trạng thái cao làm người hoặc một vị thiên, và mục tiêu rốt ráo về điều
tốt đẹp chắc chắn là sự giải thoát hay sự toàn giác. Giữa hai điều này, nhiều
lời giáo huấn của đức Phật nói về việc đạt được mục tiêu tạm thời là trạng thái
cao. Tất cả những giáo huấn này được bao gồm trong các lời dạy dành cho một
hành giả chân chính có khả năng giới hạn {căn cơ nhỏ} hoặc trong những giáo
pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi vì những cá nhân có khả năng
đặc biệt giới hạn thật sự không làm nhiều cho kiếp sống này, mà họ nỗ lực tinh
tấn để có trạng thái cao thù thắng khi tái sinh làm người hoặc trời trong những
kiếp vị lai bằng cách xúc tiến nuôi dưỡng các nguyên nhân tạo ra các tái sinh
đó. Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận nói
rằng:[1]
Hãy biết rằng
những ai “thấp nhất”
Nỗ lực chăm chỉ
nhằm chỉ đạt
Các an vui
trong cõi luân hồi
Bằng mọi cách
cho hạnh phúc riêng họ.
Có hai điều tốt lành chắc chắn:
sự giải thoát mà đơn thuần chỉ là tự do khỏi luân hồi và trạng thái giải thoát
tối thượng của toàn giác. Nhiều lời giáo huấn của đức Phật liên quan đến Duyên
Giác và Thanh Văn thừa. Tất cả những tuyên thuyết này được đề cập trong các
giáo pháp dành cho một hành giả có khả năng thật sự trung bình hoặc trong những
giáo pháp dành chia sẻ với một hành giả như vậy, bởi những hành giả có khả năng
trung bình sẽ phát khởi sự tỉnh giác với tất cả mọi thứ trong luân hồi và sau
đó thiết lập mục tiêu là giải thoát chính họ khỏi luân hồi. Rồi họ bước vào lộ
trình của ba sự rèn luyện, phương tiện để đạt giải thoát. Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận:[2]
Những người
được gọi là “trung bình”
Ngăn chận những
hành vi tội lỗi
Quay lưng với
an lạc trong luân hồi,
Và tinh tấn nỗ
lực cho thanh tịnh riêng mình.
Tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luận của Trưởng lão [Atiśa] nói rằng:[3]
Bởi bổn sư, đức
Phật, nói rằng,
“Nương tựa Ba-la-mật
và Chân ngôn thừa[4]
Và thành đạt
được chân giác ngộ”,
Giờ ta sẽ viết
về ý nghĩa điều này.
Theo đó, phương thức đạt đến toàn
giác bao gồm hai phần: những Đại thừa của các Ba-la-mật-đa và Đại thừa của các
chân ngôn {skt. mantra – còn gọi là mật chú}. Hai phần này được bao gồm trong
những giáo pháp dành cho một hành giả thượng căn, vì những người này qua tác
động của lòng đại bi, lấy Phật quả làm mục tiêu của họ nhằm dẹp tan mọi đau khổ
của tất cả chúng sinh. Sau đó họ rèn luyện sáu Ba-la-mật-đa, hai giai đoạn[5], và tương
tự. [88] Trong tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng:[6]
Những người
được gọi là “thượng căn”
Thành tâm muốn
dẹp tan tất cả
Mọi đau khổ của
những người khác
Qua cách hiểu
nỗi khổ chính mình.
Dưới đây, tôi sẽ diễn giải phương
thức những người này đạt tới sự giác ngộ bao hàm trong cả Ba-la-mật-đa thừa lẫn
mật chú thừa. Liên quan đến những điều kiện dành cho ba loại người, các lời
giáo huấn này trong tác phẩm Bồ-đề Đạo
Đăng Luận có ý nghĩa tương tự với lời giáo huấn trong Quyết Định Yếu Luận của tác phẩm Du-già Hạnh Địa Luận:[7]
Hơn nữa, có ba
loại người như sau: có những người trì giữ phát nguyện về giới là từ bỏ mười
việc bất thiện, điều này vốn không được xem xét là một giới nguyện, tuy nhiên
nó cũng tương tự như giới nguyện. Có những người phát nguyện về Thanh Văn giới.
Có những người phát nguyện về Bồ-tát giới. Trong số này, loại người đầu tiên có
khả năng thấp nhất; loại người thứ hai là trung bình; và loại người thứ ba là
thượng hạng.
Ngoài ra, các kinh điển cũng đề
cập nhiều cách để định vị một hành giả có khả năng thấp nhất, trung bình và
thượng hạng. Tương tự Bồ-đề Đạo Đăng Luận
của ngài Atiśa, tác phẩm Vi Diệu Pháp
Báu Luận của ngài Thế Thân[8] cũng xác
định ba loại người. Thật sự có hai loại trong số những hành giả mang khả năng
giới hạn – những người nỗ lực cho kiếp sống này và những người nỗ lực cho những
kiếp vị lai. Tuy nhiên, ở đây tôi đang nói đến trường hợp sau, những người sẽ
được tôi nhận diện là thực hiện phương pháp đúng đắn để đạt địa vị cao.
2) Vì sao các đệ tử được hướng dẫn theo các giai đoạn áp dụng các rèn
luyện dành cho ba loại người
Sự diễn giải này gồm hai phần:
1. Mục đích của
việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ trình về ba loại người
2. Vì sao các
đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
a) Mục đích của việc hướng dẫn các đệ tử qua phương tiện của các lộ
trình về ba loại người
Tôi đã đưa ra sự diễn giải về ba
loại người. Tuy nhiên, các giai đoạn trong lộ trình dành cho hành giả có khả
năng cao cũng bao hàm trọn vẹn những lộ trình dành cho hai loại người còn lại.
Vì thế, hai lộ trình này là những phần, hay những chi, của đạo Đại thừa. [89]
Như đạo sư Mã Minh đề cập trong tác phẩm Thế
Tục Bồ-đề Tâm Tu Tập (Saṃvṛti-bodhicitta-bhâvanâ):[9]’
Không hại ai,
với tâm chân thật,
Và trong sạch;
không hề trộm cắp,
Và bố thí mọi
tài sản của ngươi
Là hành vi
khiến tái sinh hạnh phúc.
Một khi thấy
khổ đau của luân hồi,
Ngươi theo lộ
trình đúng để rời khỏi nó,
Và loại trừ hai
hành động tội lỗi;
Đó là hành vi
khởi tạo sự an nhiên.
Người thượng
căn nên tu tập tất cả điều này;
Đó là những ngả
đường của sự quyết tâm tối cao cho giải thoát.
Tri nhận rằng
chư pháp giai không
Tạo dòng chảy
từ bi cho mọi chúng sinh.
Những phương
tiện thiện xảo vô hạn
Là hoạt động
của quyết tâm tối thượng để giải thoát.
Vì vậy, trong việc này các vị đạo
sư không dẫn dắt quý vị theo con đường dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn, những người lập mục tiêu chỉ đơn thuần vì hạnh phúc trong luân hồi, hay
con đường dành cho những hành giả có khả năng trung bình, những người chỉ lập
mục tiêu đơn thuần là sự giải thoát khỏi luân hồi cho bản thân họ. Đúng hơn là,
các đạo sư chọn ra một số lộ trình có chung cho hai loại người này và dùng
chúng làm những điều kiện tiên quyết để dẫn dắt quý vị theo lộ trình dành cho
những hành giả thượng căn. Vì thế họ dùng chúng làm những thành phần của lộ
trình rèn luyện dành cho những hành giả thượng căn. Do vậy, một khi quý vị đã
phát triển ước mong tận dụng lợi thế của kiếp người an lạc và thuận duyên này
như giải thích trước đây, quý vị phải biết được làm cách nào để tận dụng lợi
thế trọn vẹn của nó. Liên quan đến điều ấy, tác phẩm Trung Đạo Tâm Yếu Luận của ngài Thanh Biện nói rằng:[10]
Những tấm thân
này thật quá mỏng manh,
Như cây chuối
và như bong bóng nước.
Ai sẽ không
mang lại cho chúng sự vững vàng như núi Tu-di
Bằng việc lấy
chúng làm điều kiện để giúp đỡ cho những người khác?
Những tấm thân
này là cơ sở của bệnh tật, tuổi già, và sự chết
Những ai có
phẩm cách tốt và lòng từ bi
Khiến cho chúng
trong từng khoảnh khắc
Làm nền tảng
thăng tiến hạnh phúc của tha nhân.
Đời an lạc
tránh khỏi tám duyên không an lạc
Do bởi ngọn đèn
của giáo pháp tối thượng sáng soi
Hãy tận dụng
thật tốt an lạc này
Qua hành động
của một người thượng trí.
Vì vậy, hãy bước vào Đại thừa với
suy nghĩ: “ngày đêm, tôi sẽ luôn ứng xử như một hành giả thượng căn, tận dụng
tốt thân này, vốn là một nơi trú ngụ của bệnh tật, một cơ sở của các đau khổ,
của tuổi già và điều tương tự, cũng như nó vốn thiếu vững chắc tựa như cây
chuối hay bong bóng nước”.
Vấn: Từ lúc bắt đầu, vị đạo sư nên hướng dẫn đệ tử qua các tu tập
của một hành giả thượng căn. [90] Đâu là công dụng của sự rèn luyện theo những
lộ trình được chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình?
Đáp: Rèn luyện theo các lộ trình được chia sẻ với hai loại người
này là một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển lộ trình của một hành giả
thượng căn. Tôi sẽ giải thích cách điều này là như thế.
b) Vì sao các đệ tử được hướng dẫn qua những giai đoạn như vậy
Việc vì sao các đệ tử được hướng
dẫn qua những giai đoạn như vậy được diễn giải về các mặt nguyên nhân thật sự
và mục đích.
i) Nguyên nhân thật sự
Đường vào Đại thừa chỉ có tâm
Bồ-đề vô thượng. Một khi điều này phát sinh trong dòng tâm thức của quý vị thì
như được đề cập trong tác phẩm Nhập Bồ-đề
Hành Luận của ngài Tịch Thiên:[11]
Khi chúng sinh
vô vọng,
Bị trói trong
ngục tù
Luân hồi bao
đau khổ
Phát khởi tâm
Bồ-đề
Họ sẽ được gọi
là
“con của đấng
Thiện Thệ” [12]
Và thật đáng
tôn vinh
Trong chư
thiên, nhân giới.[13]
Vì thế, những chúng sinh này bước
vào Đại thừa được đặt tên là “những đứa con của bậc Điều Ngự” hay “những vị
Bồ-tát”. Nếu họ hủy hoại tâm Bồ-đề của mình, họ sẽ tự trục xuất bản thân ra
khỏi đoàn thể những hành giả tu tập Đại thừa.
Do đó, những người ước mong bước
vào Đại thừa phải phát triển tâm Bồ-đề này bằng cách thực hiện nhiều dạng nỗ
lực. Những bản văn tối cao dạy về những giai đoạn của lộ trình Bồ-tát đạo, các
tác phẩm Bồ-tát Học Luận và Nhập Bồ-đề Hành Luận của ngài Tịch
Thiên, đề cập đến phương pháp phát triển tâm Bồ-đề ấy. Các tác phẩm đó nói rằng
trước tiên quý vị cần thiền quán về những ích lợi của nó. Sau đó, quý vị làm
mạnh mẽ nỗi hân hoan về những lợi lạc này từ tận đáy lòng của mình. Điều này
phải đồng hành với việc thực hành bảy hạnh nguyện {Phổ Hiền} cùng với sự thực
hành quy y.
Nếu quý vị viết cô đọng lại những
lợi ích được đề cập theo cách này, thì chúng bao gồm hai phần: tạm thời và rốt
ráo. Phần đầu tiên lại gồm hai khía cạnh nữa: không rơi vào những cảnh giới
khốn khổ và được tái sinh trong những cảnh giới hạnh phúc. Điều đó nghĩa là,
một khi phát tâm Bồ-đề, quý vị sẽ loại bỏ được nhiều nguyên nhân tích lũy từ
trước cho những sự tái sinh đau khổ, và quý vị chấm dứt sự tích lũy liên tục về
chúng trong tương lai. Quý vị cũng tăng trưởng mạnh mẽ những nguyên nhân đã
tích lũy từ trước cho những sự tái sinh hạnh phúc bởi chúng được thấm nhuần tâm
Bồ-đề này. Hơn nữa, bởi quý vị được tâm Bồ-đề này thúc đẩy, nên những nhân mà
quý vị gây tạo lại sẽ là khoog thể nào cạn kiệt. [91] Nương tựa tâm Bồ-đề này,
quý vị sẽ dễ dàng đạt đến những mục tiêu cuối cùng, sự giải thoát và toàn giác.
Ngay từ lúc bắt đầu, quý vị phải
có ước vọng chân thành mong cầu để đạt đến những lợi ích tối hậu và tạm thời
này. Nếu không có điều đó, quý vị có thể nói rằng: “Tôi sẽ nỗ lực phát triển
tâm Bồ-đề này” vì những lợi ích vốn sinh khởi từ việc
phát triển tâm Bồ-đề, nhưng đó sẽ chỉ là những lời nói suông. Sự rỗng tuếch của
lời tuyên bố này rất rõ ràng một khi quý vị kiểm chứng lại tâm thức của mình.
Vì thế, trước tiên quý vị phải
rèn luyện trong tư tưởng chung cho những cá nhân có khả năng giới hạn và trung
bình nhằm phát triển một niềm ước ao đạt được hai lợi ích, trạng thái cao [là
người hoặc trời] và điều tốt lành chắc chắn [sự giải thoát hay sự toàn giác].
Sau khi phát triển được điều ước như vậy, quý vị nuôi dưỡng tâm Bồ-đề, là thái
độ giúp sinh khởi những lợi ích ấy. Khi làm điều này, quý vị phải phát triển
lòng đại từ bi vốn là nền tảng cho thái độ này. Nói cách khác, khi quý vị quán
chiếu rằng mình đã lang thang trong luân hồi, bị mất đi hạnh phúc và bị nỗi đau
khổ hành hạ như thế nào, thì những sợi lông trên người quý vị phải nên dựng
đứng lên. Nếu không có sự trải nghiệm này, quý vị sẽ chẳng thể trở nên bất nhẫn
với sự đau khổ của những chúng sinh khác khi họ phải chịu đựng và bị tước đi
hạnh phúc bởi họ lang thang trong luân hồi. Trong tác phẩm Nhập Bồ-đề Hành Luận:[14]
Những ai chưa
nghĩ tưởng
Đến một thái độ
như vầy
Cho lợi ích
riêng họ;
Thì ngay cả
trong mơ
Làm sao khởi
được nó
Cho hạnh phúc
tha nhân?
Do vậy, trong bối cảnh người có
khả năng giới hạn, quý vị quán chiếu cách mà mình bị hãm hại trong những cảnh
giới khốn cùng đến như thế nào. Trong bối cảnh của hành giả có khả năng trung
bình, quý vị quán chiếu theo phương cách rằng thậm chí ở trạng thái cao, thì
cũng có đau khổ và không có được hỷ lạc an tịnh. Sau đó, quý vị thúc đẩy sự
phát triển tình yêu thương và lòng từ bi bằng cách nuôi dưỡng sự đồng cảm với
các chúng sinh, những người quý vị xem là gần gũi với mình. Từ đây quý vị sẽ
phát tâm Bồ-đề. Vì thế, sự rèn luyện suy nghĩ chung với những người có khả năng
giới hạn và trung bình là phương pháp phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật; đó
không phải là một lộ trình riêng biệt nào mà vị đạo sư dẫn dắt quý vị theo.
Tương ứng theo đó, quý vị thực
hiện nhiều phương cách khác nhau để thanh tịnh hóa bản thân khỏi sự bất thiện
và tích lũy công đức nhờ sử dụng những tu tập để phát triển được cả thái độ
chia sẻ với những hành giả có khả năng giới hạn lẫn thái độ chia sẻ với những
hành giả có khả năng trung bình. Các ví dụ là việc quy y và việc suy nghĩ về
nghiệp và nghiệp báo. [192] Hãy hiểu rằng những điều này cũng giúp quý vị phát
tâm Bồ-đề, bởi chúng phù hợp với bảy hạnh nguyện Phổ Hiền hoặc với tu tập quy
y, vốn là những phương pháp rèn luyện đóng vai trò tiên quyết cho tâm Bồ-đề
trong bối cảnh của những tu tập dành cho hành giả thượng căn.
Ở điểm này, vị đạo sự trình bày
chi tiết một cách xuyên suốt về những phương cách mà trong đó, các rèn luyện
của những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình đóng vai trò như các
thành phần cho sự phát tâm Bồ-đề vô thượng. Hơn nữa, quý vị, người đệ tử, sẽ
đạt đến tri thức chắc chắn về điều này. Sau đó, bất cứ khi nào quý vị duy trì
thiền, điều tối quan trọng là quý vị giữ vững hiểu biết này trong tâm và rèn
luyện những giáo pháp này như là các thành phần cho sự phát triển tâm Bồ-đề của
quý vị. Nếu không, lộ trình của hành giả thượng căn và những lộ trình của những
hành giả có khả năng giới hạn và trung bình sẽ bị tách biệt và không liên quan. Và bởi quý vị sẽ không đạt tri thức chắc chắn về tâm
Bồ-đề nào cả cho đến khi quý vị đạt đến lộ trình thật sự của hành giả thượng
căn, nên việc thiếu rèn luyện trong những chủ đề này, như là những phần của sự
phát triển tâm Bồ-đề của quý vị, sẽ khiến ngăn trở quý vị không phát triển được
tâm Bồ-đề ấy, hoặc, trong khi quý vị thiếu sự rèn luyện này, sẽ khiến cho quý
vị lệch khỏi mục tiêu to lớn của bản thân về việc phát tâm Bồ-đề ấy. Do đó, hãy
lưu ý kỹ ở điểm này.
Theo
phương cách này, hãy rèn luyện theo các lộ trình của những hành giả có
khả năng giới hạn và trung bình và rèn luyện tốt những điều được diễn giải
trong bối cảnh dành cho hành giả thượng căn. Sau đó, bằng tất cả khả năng tốt
nhất, hãy phát khởi một tâm Bồ-đề chân thật trong dòng tâm thức của mình. Tiếp
theo, để tinh thần này trở nên ổn định, hãy tiến hành một sự tu tập đặc biệt về
quy y và sau đó thực hiện nghi lễ về sự phát tâm Bồ-đề mạnh mẽ. Sau khi quý vị
đã tiếp nhận tinh thần nguyện ước {Bồ-đề tâm nguyện} mạnh mẽ này qua nghi lễ,
quý vị phải nỗ lực học hỏi các giới luật của nó. Tiếp đến, hãy phát triển sự
ước ao mãnh liệt để học hỏi những hạnh Bồ-tát, như sáu Ba-la-mật-đa và bốn cách
thu nhận đệ tử. Một khi sự ước ao này sinh khởi từ tận đáy lòng quý vị, hãy
kiên định áp dụng lời thệ nguyện thanh tịnh về xúc tiến Bồ-đề tâm {Bồ-đề tâm
hành}. Sau đó, với sự dấn thân, hãy tránh bị những vi phạm căn bản làm cấu
nhiễm. Hãy nỗ lực để ngay cả những sự ô uế nhỏ nhoi và trung bình hoặc sự gây
tạo những lỗi lầm cũng không làm quý vị ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô nhiễm,
hãy làm thanh tịnh bản thân một cách triệt để bằng cách sửa đổi những sự vi
phạm như được chỉ dạy trong kinh.
Tiếp theo, hãy rèn luyện bao quát
về sáu Ba-la-mật-đa. Một cách cụ thể, hãy rèn luyện thật tốt về bình ổn thiền –
cốt lõi của định – để làm cho tâm thức của quý vị có khả năng được đặt lên một
đối tượng thiền thiện đức, theo sự ước mong của quý vị. [93] Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận của Trưởng lão[15] nói rằng
quý vị nên phát triển định từ thiền nhằm sinh khởi những tri kiến siêu việt.
Ngài dẫn ra một ví dụ đơn giản. Trong những tình huống khác, Ngài nói rằng quý
vị nên phát triển định lực nhằm sinh khởi tuệ giác. Vì vậy, đạt được định chủ
yếu nhằm mục tiêu cho tuệ. Sau đó, để cắt bỏ những trói buộc của quan niệm về
hai bản ngã {nhân vô ngã (tib. གང་ཟག་གི་བདག་མེད)
và pháp vô ngã (tib. ཆོས་ཀྱི་བདག་མེད)},
hãy lập một xác định triết lý về ý nghĩa của tánh Không, tức là sự vô ngã. Sau
khi duy trì một phương pháp thiền không sai sót, hãy đạt đến sự thấu suốt, tức
là trái tim của trí tuệ.
Theo đó, tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận Thích của ngài Atiśa[16] đề cập
rằng, ngoại trừ những tu tập về định và tuệ, tất cả những sự tu tập trong mức
độ giới luật và bao gồm việc rèn luyện các giới luật của Bồ-đề tâm hành sẽ cấu
thành việc rèn luyện giới luật. Định là việc rèn luyện về sự tập trung hoặc
việc rèn tâm. Tuệ là việc rèn luyện về trí tuệ. Hơn nữa, tất cả những tu tập
trong mức độ định từ thiền và bao gồm định từ thiền cấu thành nên nhân tố của
sự giác ngộ được gọi là phương tiện, tức là sự tích lũy công đức, những đạo
pháp phụ thuộc vào các chân lý ước lệ {tục đế}, hay còn được gọi là những giai
đoạn của lộ trình bao quát. Sự phát triển của ba loại trí tuệ thấu suốt[17]
cấu trúc nên nhân tố của sự giác ngộ được gọi là trí tuệ, sự tích lũy trí tuệ,
vốn phụ thuộc vào những chân lý tối hậu {chân đế}, hay còn gọi là những giai
đoạn của lộ trình uyên thâm. Vì thế, hãy biết thật chắc chắn về trình tự của
chúng, về sự thật rằng chúng là một danh mục toàn diện, và rằng quý vị không
thể đạt đến sự giác ngộ chỉ bằng phương tiện hay trí tuệ đơn thuần.
Đây là cách mà những chú ngỗng
hoàng gia, những đứa con của bậc Điều ngự, tức những kẻ đang trên con đường ra
đại dương mênh mông những phẩm hạnh diệu hảo của một vị Phật, sải đôi cánh của
chúng và bay lên. Một cánh là những chân lý quy ước – tất cả những nhân tố về
phương tiện, lộ trình bao quát. Một cánh kia, dựa vào những chân lý tuyệt đối,
đang hiểu biết rõ cả thực tại lẫn vô ngã. Tuy nhiên, chúng không thể chỉ sử
dụng một phần đơn lẻ của lộ trình, hay bay lên như chú chim gãy một cánh.[18] Như tác
phẩm Nhập Trung Quán Luận Thích của
ngài Nguyệt Xứng đề cập:[19]
Dang đôi cánh
trắng và rộng của thực tại và ước lệ,
Những chú ngỗng
hoàng gia, hộ tống bởi đàn chúng sinh,
Bay trên những
ngọn gió đức hạnh để đạt đến vô thượng
Trên bờ xa,
những phẩm hạnh Phật lớn tựa đại dương. [94]
Sau khi quý vị rèn luyện tâm thức
bằng lộ trình thông thường, quý vị chắc chắn phải bước vào con đường mật chú
bởi vì khi thực hiện, quý vị sẽ nhanh chóng hoàn thành hai sự tích lũy. Nếu quý
vị không thể tu tập xa hơn lộ trình thông thường, hoặc không muốn làm điều đó
do thiên hướng của quý vị thừa kế từ những kiếp trước quá yếu, vậy thì chỉ cần
cải thiện trên từng giai đoạn này của lộ trình.
Quý vị được chỉ dạy rằng tất cả
các thừa nói chung và mật chú thừa nói riêng nương tựa vào vị đạo sư đều rất
cốt yếu. Bởi thế, một khi bước vào con đường chân ngôn, quý vị nên làm theo
những sự giải thích về mật chú, và tu tập một pháp môn dựa vào vị đạo sư thậm
chí còn chuyên sâu hơn những gì tôi diễn giải trước đây. Sau đó, hãy làm cho
tâm thức quý vị trở nên chín muồi với những quán đảnh đến từ những nguồn Mật thừa
thanh tịnh, trì giữ một cách đúng đắn với ngay cả sự rủi ro cho tính mạng của
quý vị, về tất cả những lời thệ và nguyện mà quý vị nhận được trong suốt các
quán đảnh của quý vị. Quý vị có thể phát nguyện lại nếu mình bị một sự vi phạm
căn bản tác động, tuy nhiên tâm thức quý vị sẽ bị hư hoại, và sẽ rất khó khăn
để tăng trưởng những phẩm hạnh diệu hảo. Vì thế, hãy nỗ lực một cách cụ thể để
không bị những vi phạm căn bản làm hư hỏng và không bị những vi phạm thứ cấp
làm ô nhiễm. Ngay cả nếu quý vị bị ô uế bởi những điều này, hãy thanh tịnh hóa
bản thân với sự sám hối và kiềm chế, vì những sự thệ nguyện là nền tảng của lộ
trình.
Tiếp đó hãy rèn luyện theo những
lời hướng dẫn tốt đẹp về Du-già với các biểu tướng (nói về những cấp độ Mật
thừa thấp hơn), hoặc Du-già của giai đoạn phát khởi (nói về Mật thừa Du-già ở
mức cao nhất). Sau khi sự rèn luyện này đã vững vàng, hãy rèn luyện thật tốt về
Du-già không biểu tướng (nói về những cấp độ Mật thừa thấp hơn), hoặc Du-già
của giai đoạn hoàn mãn (nói về Mật thừa Du-già ở mức cao nhất).[20]
Tác phẩm Bồ-đề Đạo Đăng Luận trình bày phần chính yếu của lộ trình như vậy;
những giai đoạn của lộ trình cũng hướng dẫn quý vị theo cách này. Đại Trưởng
lão cũng đã giáo huấn điều này trong những bản văn khác. Tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Tập của Ngài
nói rằng:[21]
Nếu ngươi ước
mong chứng vô thượng Bồ-đề,
Vốn cao quý bất
khả tư lường,
Hãy dốc lòng tu
tập và thành tựu tâm Bồ-đề,
Bởi sự giác ngộ
phụ thuộc vào tu tập. [95]
Bởi thân thể an
lạc và thuận duyên toàn hảo này
Thật khó lòng
đạt được, và một khi nhận được
Sẽ rất khó mà
sở hữu lại lần sau,
Hãy khiến nó
đầy ý nghĩa nhờ nỗ lực tu tập.
Và tác phẩm Đại Thừa Đạo Thành Tựu Pháp Hạng Huống Tập của Ngài nói rằng:[22]
Khi một cơ
duyên sinh khởi
Cho những phạm
nhân trốn khỏi ngục tù,
Họ bỏ chạy khỏi
nơi ấy,
Bởi mục tiêu họ
không như những thường nhân.
Cũng thế khi cơ
duyên sinh khởi
Để vượt qua
biển cả luân hồi,
Ngươi trồi lên
ra khỏi chốn luân hồi,
Bởi mục tiêu
ngươi không như những kẻ khác.
Tương tự:[23]
Hành Bồ-tát
giới bằng cách trì theo
Tu tập quy y,
giữ giới cao hơn,
Và nền tảng
Bồ-đề tâm nguyện mãnh liệt,
Hãy tu tập đúng
đắn, theo các giai đoạn, bằng năng lực của ngươi,
Tất cả những
Bồ-tát hành –
Sáu
Ba-la-mật-đa và tương tự.
Hơn nữa:[24]
Nuôi dưỡng trí
huệ tâm và phương tiện –
Trí huệ định
lực, và hợp nhất chúng.
Ngoài ra, tác phẩm Định Tập Phẩm của Bodhihadra {Giác Hiền} đề cập rằng:[25]
Đầu tiên, hãy
vững vàng tâm Bồ-đề toàn hảo của ngươi,
Sinh khởi từ
sức mạnh từ bi.
Đừng tham chấp
tận hưởng những nguồn vui trong luân hồi,
Và quay lưng
đừng bám lấy chúng.
Được ban những
bảo vật toàn hảo như niềm tin,
Hãy tôn kính
đạo sư của ngươi, người ngang hàng đức Phật.
Với những lời
nguyện đạo sư đã dạy,
Hãy tinh tấn
trong thiền.
Nhận qua lòng
từ của thầy
Sự ban tặng
những quán đảnh, cả bình cam lồ và mật ngữ.
Làm thanh tịnh
thân, khẩu, và ý,
Những hành giả
như vậy thích hợp để chứng ngộ.
Bằng việc hoàn
thành những sự tích tập
Sinh khởi từ
định chi,
Họ sẽ chóng đạt
sự chứng ngộ vô thượng.
Đó là con đường
của mật chú.
ii) Mục đích
Vấn: Nếu những giáo pháp dành cho những hành giả có khả năng giới
hạn và trung bình là các điều kiện tiên quyết cho hành giả thượng căn, chúng có
lẽ cũng được xem là những giai đoạn cho lộ trình của hành giả thượng căn. [96]
Vì sao lại sử dụng thành ngữ này: “các giai đoạn của lộ trình được chia sẻ với
những hành giả có khả năng giới hạn và trung bình”?
Đáp: Có hai mục đích to lớn của
việc phân biệt ba loại người và theo đó hướng dẫn các đệ tử: (1) điều đó đánh
tan suy đoán cho rằng quý vị là một hành giả thượng căn cho dù không phát triển
những trạng thái tâm thức tương tự như những hành giả có khả năng giới hạn và
trung bình, và (2) điều đó mang lại lợi ích to lớn cho những người có tâm thức
ở mức tốt nhất, trung bình và thấp nhất. Nó mang lợi ích cho họ như thế nào?
Ngay cả hai loại hành giả có khả năng cao hơn cũng phải tìm cầu địa vị cao và
sự giải thoát, vì vậy không có gì sai lầm khi giáo huấn các đệ tử có khả năng
trung bình và cao về những sự tu tập phát triển những thái độ của những hành
giả có khả năng giới hạn và những hành giả có khả năng trung bình. Họ sẽ phát
triển được những phẩm hạnh diệu hảo.
Những hành giả có khả năng giới
hạn nhất có thể rèn luyện những sự tu tập cao hơn, nhưng điều này sẽ dẫn đến
việc họ từ bỏ nhãn quan thấp hơn của họ mà lại không tăng trưởng lên được một
nhãn quan cao hơn, và vì vậy họ sẽ không được gì cả. Hơn nữa, có thể có những
hành giả nhiều thiện duyên đã phát khởi những lộ trình cao hơn trong những kiếp
trước. Nếu họ được giáo huấn về những lộ trình chia sẻ với những hành giả khả
năng thấp hơn và sau đó rèn luyện chúng, thì họ sẽ nhanh chóng tăng trưởng
những phẩm hạnh diệu hảo đã phát khởi trước đó hoặc những phẩm hạnh chưa phát
khởi từ trước. Vì vậy, bởi họ đã phát khởi những lộ trình thấp hơn, nên họ có
thể được dẫn dắt theo những lộ trình lần lượt cao hơn, và do đó lộ trình của
chính họ đã tu tập trong những kiếp trước sẽ không bị trì hoãn.
Tác phẩm Chân Ngôn Vương Vấn Kinh[26]
dùng ví dụ về một thợ kim hoàn khéo tay dần dần tinh luyện được món trang sức
để minh họa sự cần thiết cho việc hướng dẫn tâm thức của đệ tử theo các giai
đoạn. Để thận trọng tránh sự dài dòng, tôi không trích dẫn chúng đầy đủ ở đây.
Vị hộ pháp Long Thọ cũng đã hướng dẫn các đệ tử theo những giai đoạn trong suốt
những lộ trình để đạt đến địa vị cao và sự tốt lành chắc chắn:[27]
Ban đầu có
những giáo pháp về trạng thái cao;
Rồi đến với
những giáo pháp về sự tốt lành chắc chắn.
Bởi khi đạt đến
trạng thái cao,
Ngươi dần vươn
tới sự tốt lành chắc chắn.
Tương tự, Tôn giả Vô Trước cũng
nói rằng:[28]
Hơn nữa, các vị
Bồ-tát hướng những đệ tử của họ thành tựu nhân tố đức hạnh của sự giác ngộ một
cách đúng đắn và theo các giai đoạn. Để làm được điều này, ban đầu họ đưa ra
những giáo pháp dễ dành cho những chúng sinh có trí tuệ non trẻ, yêu cầu họ tu
tập theo những huấn thị và giải nghĩa ở mức dễ dàng. Khi nhận thấy trí tuệ của
những chúng sinh này phát triển lên khả năng trung bình, các vị yêu cầu họ tu
tập những giáo pháp và huấn thị ở mức trung bình, và những sự giải nghĩa trung
bình. [97] Khi nhận thấy trí tuệ của những chúng sinh này trở nên rộng mở, các
vị yêu cầu họ tu tập những giáo pháp và huấn thị uyên thâm, và những sự giải
nghĩa vi diệu. Đây là luồng hoạt động mang tính quyết định cho hạnh phúc của
những chúng sinh này.
Ngoài ra, tác phẩm Hạnh Hiệp Đăng Luận của ngài Thánh Thiên
mô tả phương pháp trước tiên quý vị rèn luyện tư duy về Ba-la-mật-đa thừa và
sau đó bước vào mật chú thừa. Tác phẩm chứng minh rằng quý vị phải thực hiện
điều này theo các giai đoạn. Sau đó điểm này được tóm tắt như sau:[29]
Phương pháp
những chúng sinh khởi đầu
Tham gia vào
mục tiêu tối thượng
Được đức Phật
toàn hảo huấn thị
Tương tự từng
bậc của cầu thang.
Hơn nữa, tác phẩm Tứ Bách Kệ Tụng[30]
cũng đề cập rằng trình tự của con đường là xác định:
Thoạt tiên,
ngừng các việc thất đức.
Tiếp theo,
ngừng sai lầm về ngã.
Cuối cùng, dứt
tất cả tà kiến;
Ai hiểu điều
này là bậc tinh thông.
Tương tự, vị đa văn đạo sư Mẫu
Hầu đã nói rằng:[31]
Tựa như việc
nhuộm vải không còn vết nhơ:
Trước tiên họ
phát triển điều thiện trong tâm đệ tử
Thông qua những
bàn luận về bố thí và tương tự,
Và rồi họ bảo
đệ tử quán tưởng về giáo pháp.
Viện dẫn bản văn này, đại sư
Nguyệt Xứng cũng cho rằng đạo pháp có một trình tự xác định. Vì trình tự mà
chúng tôi dùng để hướng dẫn những người khác đi theo con đường một cách rõ ràng
là rất thiết yếu cho sự tu tập của họ, hãy đạt đến sự chắc chắn vững vàng về
phương pháp này.
Chương
BA218 Caryâ-saṃgraha-pradîpa, P5379:186.3.6-7.