Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Ma Nhiễu Loạn

15 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12612)
Kinh Ma Nhiễu Loạn


PHẬT NÓI KINH MA NHIỄU LOẠN


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0066 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Thất dịch nhân danh Phụ Hậu Hán Lục

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---

 

Nghe như vậy:

Một thời Bà già bà ở trong vườn Lộc dã, rừng Mục ma tỷ lượng bạt kỳ thi.

Bấy giờ tôn giả đại Mục kiền liên đang coi việc dựng thiền thất cho đức Phật. Khi ấy ở nơi khoảng đất trống, tôn giả đại Mục kiền liên đang đi thong thả bảo người làm việc. Bấy giờ ma Ba tuần hóa hình nhỏ xíu chui vào trong bụng của tôn giả đại Mục kiền liên. Lúc đó tôn giả đại Mục kiền liên suy nghĩ như vầy: “ Tại vì sao ta cảm thấy nặng bụng? Hình như ta ăn phải hạt đậu. Ta hãy nhập tam muội Chánh thọ như kỳ tượng, bằng vào định ý ta nhìn vào bụng xem”. Khi ấy tôn giả đại Mục kiền liên không đi bách bộ, đi đến cuối đường kinh hành, trải ni sư đàn ngồi kiết già. Lúc đó tôn giả đại Mục kiền liên nhập tam muội Chánh thọ như kỳ tượng. Bằng vào ý tam muội tự nhìn vào bụng mình, tôn giả đại Mục kiền liên biết ma Ba tuần đang ở trong bụng mình. Bấy giờ tôn giả đại Mục kiền liên bèn ra khỏi tam muội, bảo ma Ba tuần:

Này Ba tuần, ngươi hãy đi ra. Này Ba tuần, ngươi hãy đi ra! chớ có xúc nhiễu đức Như laiđệ tử đức Như lai. Ðừng để mãi mãi phải gánh lấy vô lượng khổ, vô nghĩa, không ích lợi!

Khi ấy ma Ba tuần liền nghĩ như vầy:

–Sa môn này không biết, không thấy mà lại nói: “Này ma Ba tuần ngươi hãy đi ra. Này ma Ba tuần, ngươi hãy đi ra, chớ có xúc nhiễu đức Như laiđệ tử đức Như lai. Ðừng để mãi mãi phải gánh lấy vô lượng khổ, vô ích, không ý nghĩa”. Cho dù Thế tôn của ông ta có đại oai lực, có khả năng như vậy còn không thể thấy ta, biết ta được. Huống nữa là đệ tử mà có thể biết, có thể thấy được sao! Ðiều này không thể có.

Tôn giả đại Mục kiền liên lại nói với ma Ba tuần:

–Này Ba tuần, ta biết trong ý nghĩ của ngươi nữa. Ngươi nghĩ như vầy: “Sa môn này không biết, không thấy mà lại nói rằng: này Ba tuần, hãy đi ra. Này Ba tuần, hãy đi ra. Ðừng có xúc nhiễu đức Như laiđệ tử đức Như lai. Ðừng để mãi mãi gánh lấy sự khổ vô lượng, không lợi ích, không nghĩa lý. Ðức Thế tôn của ông ta có oai lực như vậy, có khả năng như vậy mà còn không biết ta, thấy ta nữa là, huống chi đệ tử của ông ta mà có thể biết, có thể thấy ta được. Ðiều này không thể có”.

Bấy giờ ma Ba tuần lại suy nghĩ như vầy: “Sa môn này đã biết, đã thấy ta nên mới nói rằng: Này Ba tuần hãy đi ra. Này Ba tuần, hãy đi ra. Ðừng có xúc nhiễu Như laiđệ tử đức Như lai. Ðừng để phải mãi mãi gánh lấy vô lượng khổ, không có nghĩa lý, ích lợi”. Khi ấy ma Ba tuần liền nhảy ra khỏi miệng tôn giả đại Mục kiền liên và đứng trước mặt tôn giả, rồi ma Ba tuần kia đứng qua một bên. Tôn giả đại Mục kiền liên bảo ma Ba tuần:

–Này Ba tuần, vào thuở quá khứđức Như lai tên là Câu lâu tôn, bậc vô sở trước, Ðẳng chánh giác. Lúc đó ta cũng là loại ma xúc nhiễu. Ta có người em gái tên là Ca la, ngươi chính là con trai của nó. Này Ba tuần, do đó mà biết ngươi là cháu gọi ta bằng cậu. Ðức Câu lâu tôn Như lai bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác, này ma Ba tuần, ngài có hai người đệ tử tên là Tỳ lâu ( Lâm Thanh) và Tát nhã, là bậc tối thượng, tối hiền hơn các đệ tử khác. Vì sao vậy? Này Ba tuần, vì sao tôn giả Tỳ lâu, tự là Tỳ lâu Tát nhã? Này Ba tuần, tôn giả Tỳ lâu này lúc sống trên cõi Phạm thiên có thể tiếng thơm của tôn giả ( hương thinh ) vang dội cả ngàn thế giới, không có đệ tử nào có tiếng nói vang dội bằng tôn giả, không ai giống tôn giả. Tôn giả hay thuyết pháp. Này Ba tuần, vì lý do đó nên tôn giả Tỳ lâu được gọi là Tỳ lâu Tát nhã. Này Ba tuần, vì phương tiện gì mà tôn giả Tát nhã ( tưởng ) có tên là Tát nhã? Này Ba tuần, sở dĩ tôn giả có tên là Tát nhã là vì tôn giả nương nơi thành ấp mà an trụ. Lúc sáng sớm tôn giả đắp y mang bát vào thôn ấp để khất thực, tự thủ hộ thân, các căn đầy đủ, ý niệm thường định. Sau khi vào thôn ấp khất thực xong, và khi ăn vào lúc giữa trưa rồi tôn giả thu cất y bát, rửa chân, vắt ni sư đàn lên vai bên mặt, hoặc đến chỗ vắng, hoặc đến dưới gốc cây hoặc đến chỗ trống, trải ni sư đàn ngồi kiết già, liền nhập tưởng tri diệt định. Lúc ấy có những người hoặc chăn dê, chăn trâu hay đi mót củi, hoặc đi qua đường, thấy ngài nhanh chóng nhập tưởng tri diệt Chánh thọ, họ bèn nghĩ: “ Sa môn này ngồi mà chết trong chỗ vắng này, chúng ta hãy dùng cỏ khô, cây, phân bò, trải cây cỏ lên, chất chung quanh thân, đốt lửa để thiêu”.

Các người chăn dê, chăn trâu, người lượm củi, kẻ qua đường hè nhau lấy cây cỏ khô, hoặc cỏ khô mục nát chất lên thân ngài, nổi lửa mà đốt rồi bỏ đi. Tôn giả Tát-nhã, sau khi đêm đã qua, ra khỏi tam muội, nhẹ nhàng nhanh chóng đập phủi y phục, du hành trở về thôn ấp. Vào lúc sáng sớm, tôn giả mang y phục, cầm y bát đi vào thôn ấp để khất thực, tự hộ trì thân, giữ gìn các căn, ý niệm thường định. Những người lùa trâu, dê, người gánh củi, người đi đường, thấy ngài bèn nghĩ: “Sa môn này đã ngồi chết trong chỗ vắng vẻ kia, chúng ta đã dùng cây cỏ khô, phân trâu, hoặc trải cây cỏ mục nát chất phủ lên thân tôn giả ấy, nổi lửa đốt rồi bỏ đi. Nhưng nay sao tôn giả này lại sống trở lại?”.

Này Ba tuần, vì lý do đó cho nên gọi tôn giả là Tát nhã ( hoàn sanh –sống trở lại ).

Bấy giờ Ðộ số Kỳ đề tuần ( ác ma ) nghĩ rằng: “Sa môn trọc đầu đen thui này, học thiền, cùng tương ưng với thiền, thường thực hành thiền, giống như con lừa suốt ngày mang nặng, bị cột lại trong tàu, không được ăn lúa mạch, nó thiền rồi thiền, cùng tương ưng với thiền, thường thực hành thiền. Cũng vậy, Sa môn trọc đầu đen thui này hoặc câu hội cùng thiền, cùng tương ưng với thiền, hành thiền, giống như con mèo ngồi rình trước hang chuột, vì muốn bắt chuột trong hang cho nên nó thiền rồi thiền, cùng tương ưng với thiền, thực hành thiền. Cũng vậy, Sa môn trọc đầu này, đen thui, thường câu hội với thiền, tương ưng với thiền, thường hành thiền. Cũng như con chồn hươu ở trên tường trống, vì muốn bắt chuột cho nên nó thiền rồi thiền, tương ưng với thiền, thường hành thiền. Cũng vậy, Sa môn trọc đầu này đen thui, thường câu hội với thiền, tương ưng với thiền, thường hành thiền. Giống như con cò ở bên bờ nước, vì muốn bắt cá cho nên nó thiền rồi thiền. Cũng vậy, Sa môn trọc đầu này đen thui, tương ưng với thiền, thiền rồi thiền.

Vậy sao gọi là thiền? Vì sao lại hành thiền? Ðó là thiền gì? Họ loạn trí, hoặc mất trí nhớ, hoặc bất định. Ta không thấy họ từ đâu đến, cũng không thấy đi về đâu, chẳng biết họ sống ở đâu, cũng chẳng biết họ chết như thế nào, cũng không thấy họ sanh ra sao. Ta hãy bảo các bà la môn, cư sĩ: “ Các ngươi chửi mắng, đánh đập, nói xấu, sân hận với Sa môn tinh tấn kia như vậy. Nếu khi bị đánh chửi nhiều hay ít, sân hận nói xấu, biết đâu kẻ ấy tâm sẽ đổi khác, thì ác ma tìm được cơ hội, tìm được tiện lợi, hay được nhân duyên để dễ lợi dụng”.

Này ma Ba tuần, ác ma hướng về Bà la môn, cư sĩ xúi giục họ hãy chửi rủa, nói xấu, sân hận vị Sa môn tinh tấn ấy, hãy dùng cây đập, dùng đá ném, dùng gậy phan, hoặc đập tét đầu, hoặc xé rách y, đập bể bát vị Sa môn tinh tấn ấy. Bấy giờ bà la môn, cư sĩ ấy mạng chung, do nhân duyên này khi thân hoại mạng chung sanh trong địa ngục ác thú. Sanh nơi đó rồi những người ấy nghĩ rằng: “ Nay ta phải thọ khổ này, lại còn phải thọ cực khổ hơn nữa. Vì chúng ta đối với Sa môn tinh tấn kia đã khởi lòng tà”.

Bấy giờ, Ba tuần, đệ tử của đức Câu lâu tôn Như lai, bậc vô sở trước, Ðẳng chánh giác, đầu bị tét, bát bị bể, y bị rách, đi đến chỗ đức Câu lâu tôn Như lai bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác. Khi ấy đức Câu lâu tôn Như lai bậc vô sở trước, Ðẳng chánh giácvô lượng trăm ngàn đồ chúng đoanh vây để nghe ngài thuyết pháp. Ðức Câu lâu tôn Như lai, bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác từ xa trông thấy đệ tử mang đầu bị thương tích, y rách toạc, bình bát bể , từ xa đi đến. Ngài thấy rồi bảo các Tỳ kheo:

Này các Tỳ kheo, hãy nhìn Tỳ kheo này, đã bị ác tệ ma xúi giục các Bà la môn, cư sĩ: “ Các ngươi hãy đến chửi rủa, đánh đập, hãy sân giận nhiều hay ít, đánh đập Sa môn tinh tấn kia. Biết đâu y nổi ác tâm, hoặc có hành động gì khác để ác maphương tiện, tìm cầu nhân duyên, khi có nhân duyên rồi sẽ dễ dàng lợi dụng”.

Này các Tỳ kheo, hãy để tâm tương ưng với Từ, biến mãn một phương, an trụ Chánh thọ. Cũng như vậy, hai, ba, bốn phương, trên và dưới tất cả các phương, tâm tương ứng với Từ, không oán, không hại, không nhuế, thật rộng thật lớn, vô lượng cực phân biệt, biến mãn các phương xong, an trụ Chánh thọ. Cũng vậy, tâm cùng tương ưng với bi, hỷ, hộ, biến mãn các phương, an trụ Chánh thọ. Hãy làm cho tệ ma không tìm ra cơ hội, không có nhân duyên, không được thuận lợi, không có nhân duyên nào cả.

Bấy giờ, này Ba tuần, đức Câu lâu tôn Như lai bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác dạy các đệ tử như vậy. Họ bèn để tâm tương ưng với Từ, biến mãn một phương rồi an trụ Chánh thọ. Cũng vậy, hai, ba, bốn, trên và dưới, tất cả các phương, tâm cùng Từ tương ưng, không oán, không hại, không nhuế, rất rộng, rất lớn, vô lượng cực phân biệt, biến mãn các phương xong, an trụ Chánh thọ. Cũng vậy, tâm cùng bi, hỷ, hộ tương ưng, biến mãn tất cả các phương xong, an trụ Chánh thọ. Do đó, ác ma kia tìm phương tiện, kiếm nhân duyên nhưng không thấy phương tiện, nhân duyên nào cả.

Này Ba tuần, lúc ấy ác ma liền nghĩ: “ Ta dùng phương tiện này mà không thấy có cơ hội nào đối với Sa môn ấy, không thấy có nhân duyên nào đối với Sa môn ấy. Vậy ta nên xúi các bà la môn, cư sĩ: Các ngươi hãy nên đến chỗ Sa môn tinh tấn kia, hãy cung kính, tôn thờ, lễ bái, cúng dường. Do sự cúng dường, thừa sự, lễ bái mà người ấy có sự thay đổi trong tâm nhiều ít thì tệ ma sẽ tìm cơ hội, kiếm nhân duyên, ta sẽ lợi dụng”. Tệ ma kia xúi giục các cư sĩ, bà la môn đến cúng dường, thừa sự, lễ bái vị Sa môn tinh tấn kia. Tệ ma bảo các bà la môn, cư sĩ trải áo dưới đất mà nói: “Sa môn tinh tấn, xin đạp lên mà đi! Sa môn tinh tấn đã làm những việc khó làm, khiến cho chúng tôi mãi mãi được nghĩa lý, lợi ích”. Hoặc bảo bà la môn, cư sĩ tự trải tóc lên mặt đất, nói rằng: “ Sa môn tinh tấn, xin đạp lên tóc mà đi! Sa môn tinh tấn, xin đi trên tóc tôi! Sa môn tinh tấn đã làm những việc khó làm, khiến cho chúng tôi mãi mãi được nghĩa lý, lợi ích”. Hoặc bảo bà la môn, cư sĩ tay bưng đầy các món ẩm thực, nói rằng: “ Cúi mong chư hiền, hãy nhận lấy các món ăn này, tùy ý mang đi đâu thọ dụng cũng được để cho chúng tôi mãi mãi được ý nghĩa lợi ích”. Hoặc khiến các bà la môn, cư sĩ tín nhạo vị Sa môn tinh tấn kia, tự nắm tay dìu đỡ vào nhà, đem các vật muốn cúng dường ra và nói: “ Cúi mong chư hiền hãy nhận lấy vật cúng dường này, tùy ý mang đi đâu sử dụng cũng được, để cho chúng tôi mãi mãi được nghĩa lý lợi ích”. Bấy giờ các bà la môn, cư sĩ kia mạng chung, nhân đó duyên đó, khi thân hoại mạng chung được sanh đến thiện xứ, lên trời. Khi sanh lên đó rồi, họ liền suy nghĩ: “ Chúng ta được cái vui này không đâu bằng, là vì chúng ta đã làm việc lành với Sa môn tinh tấn kia”.

Bấy giờ, này Ba tuần, đệ tử của đức Câu lâu tôn Như lai, bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác, sau khi được cúng dường cung kính, thừa sự lễ bái rồi, liền đi đến chỗ đức Câu lâu tôn Như lai, bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác. Lúc đó đức Câu lâu tôn Như lai, bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác đang thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn đồ chúng đoanh vây ở phía trước. Ðức Câu lâu tôn Như lai, bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác từ xa trông thấy các đệ tử ngài được cúng dường cung kính, thừa sự, lễ bái, từ xa đi đến. Thấy xong ngài bảo các Tỳ kheo:

–Các Tỳ kheo có thấy chăng? Tệ ma Ba tuần đã xúi giục các bà la môn, cư sĩ “Các ngươi hãy cúng dường cung kính, thừa sự lễ bái, hầu hạ Sa môn tinh tấn kia. Biết đâu do sự cung kính, thừa sự, lễ bái, cúng dường này mà tâm vị ấy có thay đổi ít nhiều chăng, để ta tìm cơ hội, tìm nhân duyên; khi đã có cơ hội, nhân duyên thì ta dễ bề lợi dụng”. Này các Tỳ kheo, hãy quán các hành là vô thường, hãy thấy nó là tận diệt, thấy nó là viễn ly, thấy nó là hủy diệt, thấy nó là đình chỉ, thấy nó là chỗ đình chỉ, để khiến cho tệ ma Ba tuần tìm cầu phương tiện, tìm cầu nhân duyên thì không thể có phương tiện, không có nhân duyên để lợi dụng.

Này Ba tuần, đức Câu lâu tôn Như lai, bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác vì các đệ tử dạy như vầy: “ Ðối với tất cả các hành hãy quán vô thường, quán tận, quán ly, quán diệt, quán chỉ trụ xứ thì tệ ma Ba tuần dù có cầu phương tiện, tìm nhân duyên cũng không có phương tiện, nhân duyên để phá hoại được”.

Bấy giờ tệ ma Ba tuần liền nghĩ như vầy: “Ta đã dùng phương tiện này mà vẫn không thể lợi dụng được Tỳ kheo tinh tấn ấy, không thể tìm thấy nhân duyên nơi y. Ta nên hóa hình làm một thiếu nhi đứng bên đường, tay cầm gậy lớn đánh vỡ đầu tôn giả Tỳ lâu ( Tôn giả Âm ) khiến máu chảy cả mặt”. Khi ấy đức Câu lâu tôn Như lai, bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác, an trụ nơi thôn ấp. Khi trời hừng sáng ngài đắp y mang bát, muốn vào thành ấp để khất thực với tôn giả Tỳ lâu, đi theo sau là các Tỳ kheo. Khi ấy tệ ma hóa hình làm một thiếu nhi đứng ở bên đường, tay cầm gậy lớn đánh vỡ đầu tôn giả Tỳ lâu, khiến máu chảy ướt cả mặt. Khi ấy tôn giả Tỳ lâu sau khi bị bể đầu chảy máu vẫn đi theo sau đức Câu lâu Như lai, bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác. Bấy giờ đức Câu Lâu Như lai, bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác, sau khi đến thôn, bằng sức mạnh cùng cực của bản thân, ngài xoay nhìn theo phía hữu, không sợ, không hãi, không kinh, không khiếp, nhìn khắp các phương. Ðức Câu lâu tôn Như lai bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác thấy tôn giả Tỳ lâu đầu bị vỡ, máu chảy lênh láng, từ từ đi theo sau. Thấy xong, ngài nói:

–Này tệ ma, ngươi làm điều hung bạo, ngươi không biết vừa đủ.

Lại nữa, này Ba tuần, đức Câu lâu tôn Như lai bậc vô sở trước Ðẳng chánh giác nói chưa hết câu, thì ngay tại chỗ đó, thân hình tệ ma bị đọa đại địa ngục. Này Ba tuần, trong đại địa ngục này có bốn sự việc: vô lạc, lục cánh, thân thọ sự thống khổ, dùng móc câu làm tội nhân há miệng rồi đổ nước đồng sôi vào làm tiêu gan ruột. Trong địa ngụcngục tốt đi đến chỗ tệ ma nói rằng:

–Ngươi ở trong địa ngục Tiêu-giải (đinh sắt) này nên biết phải mãn một trăm năm như chúng đã ở.

Khi ấy ma Ba tuần nghe xong, trong lòng hết sức rúng động, lông trong người dựng đứng.

Tôn giả đại Mục kiền liên liền nói bài kệ:

Ðịa ngục kia thế nào

Hại Phật, bà la môn

Ðịa ngục tên A-tỳ

Hại Phật, bà la môn

Ðinh sắt cả trăm cái

Tại địa ngục A-tỳ

Nếu như ai không biết

Ác ma ở trong đó?

Nhiễu hại cả Tỳ kheo

Ác ma ở trong đó?

Nhiễu hại Tỳ kheo tăng

Ác ma ở trong đó.

Tỳ kheo đệ tử Phật

Phải thọ khổ như vậy

Nếu ở trong Viên-quán

Ăn lúa gạo tự nhiên

Núi Tu-Di cực lớn

Ai có thể phân biệt

Suối chảy trên núi kia

Thân hình như sắc vàng

Trổi các thứ kỹ nhạc

Nơi đó gồm cả hai

Nếu Ðế thích đi trước

Thấy Ðế thích đi đến

Nếu thấy Tỳ kheo đến

Nếu bước lên cung điện

Nên biết có ma này

Theo lời Tỳ kheo dạy

Câu dực, ta biết ngươi

Nghe lời nói trí tuệ

Tỳ kheo nhiều tu tập

Nếu lên cung điện này

Cung điện tên là gì?

Này Ðế thích, ta nói

Như vậy ngàn thế giới

Không cung điện nào hơn

(Thích) Ngài du hành tự tại 

Hóa một thành ra trăm

Ðế thích được tự tại

Ngón chân mới rung động

Ðế thích tự tại chơi

Thần túc hay chuyển động

Khó động, khó lung lay

Là chỗ Thánh nhân

Trải gấm bông êm dịu

Nay Thiên vương tối thắng

Nhiều tiết điệu lạ lùng

Hướng đến Tu-đà-hoàn

Và hàng trăm Na-thuật 

Bậc huệ nhãn thuyết pháp

Hoan hỷphụng hành

Gọi đó là tiên nhơn

Hay hỏi các phạm thiên

Sở kiến cũng như trước

Phải thọ báo nghiệp đen

Chúng sanh ở đất này

Sẽ sống Bắc-câu-lao (Bắc Châu)

Thân cận sự giải thoát

Thân thực hành trì niệm

Thường trụ nơi kiếp này

Hào quang chiếu nơi nơi

Chỗ Ðế thích vui chơi

Ở trước được cung kính

Lên điện cao quý này

Ai nấy tự vui chơi

Nhìn lui vẻ thẹn thùng

Có thể hỏi Tỳ kheo

Hết ái được giải thoát

Nghe nói đúng như vậy

Hết ái, được giải thoát

Ðế thích rất vui mừng

Xin hãy nói điều này

Ðế thích liền thưa hỏi

Mà Ðế thích ở đó?

Nó tên: Thọ báo xứ

Có ngàn thế giới này

Như thọ báo xứ này

Nơi đó rất trong sáng

Ở trên báo đường này

Lên trên cung điện này

Mắt trời liền trông thấy

Giảng đường Lộc-tử-mẫu

Nền sâu đắp kiên cố

Có đất bằng lưu ly

Trơn nhuần, thật nhu nhuyến

Lời lẽ cũng nhu nhuyến

Hay khéo trổi kỹ nhạc

Chư thiên đến tụ hội

Biết mấy vô lượng ngàn

Ðế tam thập tam thiên

Nghe ngài thuyết pháp xong

 Ta có biết pháp này

Tức lên đến Phạm thiên

Phạm có cái thấy này

Thường thấy có thường trú

Ta nói với Phạm thiên

Không thấy, không như trước

Ta thấy báo tương ưng

Ta nay do đâu nói

Có thể biết đời này

Nếu có ai huân tập

Lửa không nghĩ thế này

Cũng vậy, này Ba tuần

Mãi làm điều bất thiện

Ma chớ trách đức Phật

Do đây Tỳ kheo nói

Con quỉ sầu ảo não

Rất lo sợ hãi hùng

Tiên nhân theo ta thấy

Ta thường hữu, thường trụ

Thân Phạm thiên quá khứ

Ngã thường hằng không đổi

Bậc Ðẳng giác đã dạy

Ðã sanh phải thọ báo

Ta đốt kẻ ngu dại

Vì kẻ ấy sờ lửa

Nếu gần đức Như lai

Tất thọ báo lâu dài

Chớ nhiễu hại Tỳ kheo

Ma ở vườn Tỷ lương (Bố Lâm)

Bị Mục liên quở la

Nó bỗng nhiên biến mất. 

 

PHẬT NÓI KINH MA NHIỄU LOẠN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14852)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11927)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12831)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10427)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12141)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15361)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11177)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10616)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12539)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16519)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14400)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11866)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14882)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12117)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16951)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11641)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12796)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11417)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12150)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52351)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15561)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14049)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11498)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13249)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12864)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13316)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 18004)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12535)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12733)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54307)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14498)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 10000)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13887)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58174)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14579)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20245)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13874)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15487)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17591)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13373)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11966)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13553)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14724)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12561)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12200)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12122)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13346)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12613)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13719)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13392)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25719)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12236)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14629)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11918)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42156)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28433)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38910)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14795)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12781)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16336)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant