Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tệ Ma Thí Mục Liên

15 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13250)
Kinh Tệ Ma Thí Mục Liên


PHẬT NÓI KINH TỆ MA THÍ MỤC LIÊN


 Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0067 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Ngô Nguyệt Chi, Ưu bà tắc Chi Khiêm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy: Một thời đức Phật đức Phật giáo hóa trong vườn nai, làng xóm Khủng Cụ, núi Diệu Hoa, nước Phàn Kỳ.

Bấy giờ hiền giả Ðại Mục Kiền Liên đang kinh hành trong đêm tối. Trong lúc tôn giả đang kinh hành trên khoảng đất trống, bấy giờ Tệ Ma đi đến chỗ Ngài, tự hóa hình nhỏ xíu, chui vào trong bụng của tôn giả Mục Liên. Lúc đó hiền giả Ðại Mục Kiền Liên nghĩ như vầy: “Trong bụng của ta tại sao lại có tiếng ầm ầm như sấm, giống như người đang đói mà gánh phải vật nặng. Vậy ta nên vào trong thất nhập chánh thọ tam muội quán sát để tìm căn nguyên”. Khi ấy tôn giả Mục Liên liền vào trong thất nhập tam muội để quán thân, tôn giả liền thấy Tệ Ma hóa hình nhỏ xíu chui vào bụng mình. Tôn giả liền nói rằng: “Này Tệ Ma, hãy đi ra đừng có quấy nhiễu đức Như laiđệ tử của Ngài, để rồi mãi mãi gánh lấy khổ đau, bất an, đọa vào ác xứ”.

Khi ấy trong tâm ma nghĩ rằng: “Nay Sa môn này chưa thấy ta, cũng chưa biết ta, thế mà dối nói rằng này Tệ Ma hãy đi ra, hãy đi ra, chớ có quấy nhiễu đức Như laiđệ tử của Ngài, sẽ mãi mãi bị khổ thống, bất an. Ngay như thầy của ông là Thế tôn Ðại thánh còn không thể biết được ta, huống chi là đệ tử của ông ta mà biết được ta sao?”.

Tôn giả Mục Liên lại nói với Tệ Ma: “Ta còn biết trong ý của ngươi nghĩ rằng Ðại sư của ông ta là bậc Ðại thánh còn không thể biết được ta huống chi là đệ tử mà biết được ta”.

Lúc ấy Tệ Ma liền sợ hãi nghĩ rằng: “Nay Sa môn này đã biết ta rồi”. Nó liền hóa hình nhỏ xíu nhảy ra đứng ở phía trước. Tôn giả Mục Liên bảo với ma: “Vào thời quá khứ lâu xa về trước, lúc đức Phật Câu Lâu Tần xuất thế, khi đó ta đã từng làm ma tên là Sân hận. Ta có một người em gái tên là Quỷ Hắc. Lúc đó mày là con trai của nó. Như vậy nên biết rằng mày là con của em gái ta”.

Bấy giờ đức Phật xuất hiệnthế gian hiệu là Câu Lâu Tần Như lai, bậc chí chơn Ðẳng chánh giác. Ngài có hai người đệ tử, người thứ nhất tên là Hồng Âm, người thứ hai tên là Tri Tưởng, là bậc tối tôn, nhân hiền thứ nhất không ai bằng.

Sao gọi hiền giả ấy là Hồng Âm? Vì tôn giả đó lúc sống trên trời Phạm thiên, tiếng nói của Ngài to lớn vang rền cả ba ngàn đại thiên thế giới.

Còn sao gọi hiền giả kia là Tri Tưởng? Vì tôn giả ấy hoặc nương ở chỗ thanh vắng, ngồi dưới gốc cây nơi đồng trống hay ở trong núi, liền nhập tam muội chánh thọ Như kỳ tượng. Lúc ấy có những người đang chăn dê, chăn trâu, người lấy củi gánh cỏ, cày ruộng, người đi đường, họ vào trong núi thấy Ngài nhập định như vậy, đồng bảo nhau rằng: “Vị Sa môn này ngồi ở đây mà chết, bọn chúng ta hãy cùng nhau chất củi và cỏ lên để hỏa thiêu”. Như lời nói ấy, họ cùng nhau hỏa thiêu ngài (trà tỳ).

Tỳ kheo Tri Tưởng từ tam muội đứng dậy, đập phủi y phục, dũ các tro bụi. Khi sửa lại y phục xong, tôn giả ôm bát vào thành, quốc ấp làng xóm để khất thực. Những người chăn trâu dê, lấy củi gánh cỏ đều rất kinh ngạc, nói với nhau rằng: “Chúng ta ở chỗ đồng trống vắng vẻ, thấy Tỳ kheo này ngồi dưới gốc cây mà chẳng còn hơi thở cho là đã chết nên cùng nhau chất củi, cỏ khô để hỏa thiêu ngài. Ngày nay vì vậy gọi Tỳ kheo Tri Tưởng là Tưởng Thức.

Bấy giờ ma Sân hận tự suy nghĩ: “Bọn Sa môn này tự cho là trì giới, vắng lặng không nói mà hành tư duy. Giống như con chó, con mèo suy nghĩ cách để bắt con chuột nên nó im lặng bất động, chờ con chuột ra là bắt. Sự thiền tư của Sa môn này cũng lại như vậy.

Giống như con hạc già muốn bắt con cá, nó im lặng không có tiếng động, trầm tư, chờ con cá ra là nó nuốt. Các Sa môn này cũng lại như vậy, trầm tư suy nghĩ về mục đích mong cầu.

Giống như con lừa trong ngày mang nặng, cho đến buổi tối mệt mõi, đói khát, nó chìm đắm trong suy nghĩ muốn được ăn uống. Các Sa môn này cũng lại như vậy.

Bấy giờ trong tâm của suy nghĩ: “Ta nên giáo hóa các trưởng giả Phạm chí ở trong nước này, đánh đập chưởi mắng, làm cho y rách, bát bể, đầu vỡ, các đạo nhơn, Sa môn giữ giới này, làm cho họ sanh tâm sân hận. Ta nhờ đó tìm được phương tiện”. Như điều suy nghĩ, ma liền xúi dục các trưởng giả Phạm chí đánh đập mắng chửi, đập bể bát, đánh vỡ đầu, xé rách y phục các Sa môn trì giới phụng pháp này. Các Sa môn này giống như con mèo bắt chuột, như con hạc bắt cá, giống như chim Chí kiêu đứng ở giữa cây để bắt chuột, các Sa môn ngồi thiền cũng lại như vậy, in như con lừa đói mệt mỏi.

Khi ấy các Tỳ kheo đều bị hủy nhục, cúi đầu đi thẳng đến chỗ đức Phật Câu Lâu Tần. Bấy giờ đức Phậtbốn chúng Thiên long quỷ thần nói rộng về kinh đạo, thấy các Tỳ kheo bị hủy nhục đi đến, Ngài bảo các Tỳ kheo : “Nay ma Sân hận đã xúi dục các trưởng giả Phạm chí ở trong nước đánh đập, mắng nhiếc, đánh bể đầu, đập bể bát, xé rách y của các Sa môn trì giới phụng pháp, làm cho tâm họ tức giận, khởi ý sân hận. Nhờ nhân duyên đó ma tìm được phương tiện làm cho những vị ấy không thành đạo.

Này các đệ tử, đối với trường hợp như vậy hãy nên thực hành bốn thứ bình đẳng: từ, bi, hỷ và hộ; không ôm lòng oán kết; không tâm sân hận; rộng lớn không hạn lượng; an lạc vô biên biến khắp mười phương. Với tâm như vậy dù ma có tìm phương tiện để phá hoại cũng không thể được.

Các Tỳ kheo vâng lời đức Phật dạy, ở một cách an nhàn nơi đồng trống, một lòng thiền định tư duy, thực hành bốn đẳng tâm, ý không tăng giảm. Bấy giờ ma sân hận tuy mong muốn được những tiện lợi nơi các Sa môn trì giới phụng pháp nhưng vĩnh viễn không thể được. Khi ấy những trưởng giả Phạm chí nghe lời ma xúi dục, hủy nhục Sa môn trì giới phụng pháp, sau khi mạng chung đều bị đọa vào đường ác, bị tra tấn khổ não, ở trong địa ngục thọ lãnh hóa thân của mình. Giống như cây lớn, bóng nó tỏa ra một khoảng đất trống to lớn. Ở trên mặt đất địa ngục như sắt đốt cháy, lõa hình, lịm mình vào đó. Họ đều bảo nhau rằng: “Chúng ta bạc phước, thọ lấy tai ương tệ ác hung bạo này là do chúng ta hủy nhục, mắng nhiếc Sa môn phụng pháp trì giới, vì vậy chúng ta mới vào đây. Than ôi! Không thể thấy được Sa môn phụng pháp trì giới, muốn cầu phương tiện nhân duyên để tương kiến, vì đã tự tạo điều này phải tự thọ lấy tai ương. Vì nghe theo ma xúi dục nên mới không thể che chở thân mình”.

Bấy giờ trong tâm của ma Sân hận nghĩ rằng: “Ta nhờ phương tiện này để tìm được sự tiện lợi nơi các Sa môn trì giới, nhưng hoàn toàn không thể được. Bây giờ ta phải biến hình xúi dục các trưởng giả Phạm chí rằng các ngươi hãy cúng dường phụng sự Sa môn trì giới, dùng áo quần, cơm ăn, giường nằm, thuốc men, khiến cho vị ấy tham sự cúng dường, nhờ nhân duyên đó ta mới có cơ hội”. Liền như mưu kế ấy, ma liền xúi các trưởng giả Phạm chí trong nước đến giữa ngã tư đường, nếu ở ngã tư đường thấy các Sa môn đạo nhân trì giới hãy trải tóc trên đất để các vị ấy đi qua và tán thán rằng: “Các ngài là những vị Sa môn trì giới siêng năng tu thân, khó thấy khó gặp, xin các ngài hãy đạp lên tóc của tôi để tôi mãi mãi được vô lượng phước”.

Hoặc có trưởng giả Phạm chí mang y phục đến chỗ các Sa môn trì giới đảnh lễ, quỳ xuống thưa rằng: “Xin các ngài thương xót chúng con nhận lấy y phục này”.

Hoặc họ mang đầy thức ăn đi đến tinh xá hoặc họ đến ngã tư, đầu các ngõ tắt trong làng dâng lên để cúng dường các Sa môn trì giới, thưa rằng: “Các ngài thật khó gặp khó thấy, xin các ngài hãy nhận vật cúng dường này để chúng con mãi mãi được phước vô lượng”.

Hoặc họ bồng các ngài, dìu các ngài, cõng các ngài vào nhà họ, mời ngồi trên giường đẹp, rồi họ mang ra các thứ phạn thực, y phục, cà sa, vàng bạc bảy báu để ở phía trước, quỳ mà thưa rằng: “Ngài là vị Sa môn trì giới khó gặp khó thấy, xin ngài hãy thọ nhận những vật cúng dường này. Xin các ngài vì lòng thương xót tự ý thọ dụng để con mãi mãi được vô lượng phước”.

Lúc đó, đức Phật Câu Lâu Tần vì bốn chúng chư thiên, long, thần thấy các đạo sĩ Sa môn trì giới được các trưởng giả Phạm chí đến gặp, cúng dường cung kính vô lượng. Ngài bảo các Tỳ kheo: “Nay ma sân hận xúi dục các trưởng giả Phạm chí cúng dường Sa môn đạo sĩ trì giới các thứ y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men, tùy ý muốn gì cũng cúng dường đủ. Nhờ nhân duyên đó ma có cơ hội phá hoại thiện tâm vị ấy, làm cho không thể đắc đạo. Các ngươi hãy nên ở nơi núi non, đồng trống vắng vẻ suy niệm về sự vô thường của vạn vật. Tuy được áo cơm nhưng đừng tham đắm, phải quán thấy nó là khổ, không, phi thân. Ma tuy tìm cơ hội để phá hoại nhưng rốt cuộc vẫn không được.

Các Tỳ kheo liền vâng theo lời dạy của đức Câu Lâu Tần Như lai chí chơn, đẳng chánh giác, tu hành như pháp cho nên dù ma có tìm cơ hội vẫn không có.

Vì ma xúi dục cho trưởng giả Phạm chí bảo họ cúng dường Sa môn trì giới, nhờ công đức ấy nên họ đều được sanh lên trời. Khi họ sanh lên trời xong, họ đều suy nghĩ rằng: “Chúng ta nhờ cúng dường, thờ pháp của Sa môn trì giới thanh tịnh nên tự mình được phước này, không phải nhờ người khác hay trời mà có được như vậy”.

Bấy giờ đức Phật Câu Lâu Tần Như lai, bậc chí chơn đẳng chánh giác, sau khi thọ thực, lúc mặt trời xế bóng cùng đệ tử lớn của ngài là tôn giả Hồng Âm du hành nơi quận huyện. Khi ấy Tệ Ma hóa thành một người dũng mảnh to lớn, tay cầm gậy lớn đứng bên đường, lén giơ gậy lớn đập vào đầu tôn giả Hồng Âm làm bể đầu, máu chảy lênh láng. Bấy giờ tôn giả vẫn đi sau đức Thế tôn như bóng theo hình im lặng không nói. Ðức Câu Lâu Tần Như lai là bậc thánh không ai bằng, quay đầu nhìn lại miệng nói lời trách rằng: “Này ma sân hận, không biết kiềm chế đã tạo ra sự đại ác này”.

Khi ấy ma Sân hận ngay thân của nó liền đọa vào địa ngục, rồi hết ngục này đi đến ngục khác. Giống như con nòng nọc, con cá ra khỏi nước lên đất liền, giống như lột da trâu sống, dần dà trong địa ngục chịu sự thống khổ không sao nói được.

Lúc ấy ma Ba tuần nó ở trong địa ngục dần dần chịu sự đau đớn kịch liệt, trải qua ức năm, gấp bội ngàn vạn năm ở trong địa ngục ấy. Thí như có người thân bị bệnh cuồng, chạy đến chỗ bất an. Khi ấy này ma Ba tuần nó bị đọa vào đại địa ngục bị thống khổ vô lượng. Lúc đó ngục tốt đến nói rằng: “Ngươi nên biết rằng nếu có một cái thẻ là một con chim bay lên, trải qua mười ngàn vạn năm như vậy. So sánh như vậy cũng khó biết được số năm Tệ Ma ở trong địa ngục. Sau cùng mới ra khỏi địa ngục lại gặp ách nạn hơn hai vạn năm. Khi ấy Tệ Ma mới hết sầu khổ.

Ðức Phật nói cho tôn giả Mục Liên bài kệ rằng:

Ma sân phải chịu tội.

Ðịa ngục ấy thế nào.

Lúc Phật Câu Lâu Tần.

Hóa độ chúng đệ tử.

tai hoạn áo não.

Bị khảo trị tất cả.

Lửa đốt tự thiêu thân.

Lửa thiêu mặt thiêu hình.

Ðịa ngục ấy như vậy.

Ma Sân hận ở đó.

Lúc Phật Câu Lâu Tần.

Hồng Âm đệ tử lớn.

Giả sử trước đức Phật.

Và xem các Tỳ kheo.

Do duyên đó thọ tội.

Tại vì làm nhiễu loạn.

Nếu ưa thích phê bình.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Phải thọ tai ương này.

Sanh nơi cực khổ hoạn.

Như người nhảy vực sâu.

Bỏ mất cung điện lớn.

Không ở với ngọc nữ.

Bỏ thú vui cõi trời.

Ai hiểu rõ điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Từ đó được thoát ra.

Nguy hại đọa khổ hoạn.

Ma nên biết thân ta.

Nương vào cửa giải thoát.

Không thiên xứ, thiên nhơn.

 Trời Danh Văn Ðao Lợi.

Nếu phân biệt như vậy.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tự thân phạm phi pháp.

Do đó vào đường dữ.

Ai dùng một ngón chân.

Rung động cung tối thắng.

Xử dụng thần túc lực.

Ðại cảm ứng Mục liên.

Ai hiểu rõ điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Nếu hưng lập tự thân.

Sao lại đọa ác thú.

Ví có trăm đoan chánh.

Ngọc nữ đẹp vi diệu.

Thấy Tỳ kheo thiền tư.

Liền không ở viên quán.

phân biệt như vậy.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tỳ kheo tự tạo nghiệp.

Hoặc bị đọa ác thú.

Giả sử cùng hòa đồng.

Ðến hỏi trời Ðế Thích.

Thiên đế hiểu hay không.

Nhơn đâu được giải thoát.

Lúc phát khởi thích ứng.

Tùy theo người hỏi đáp.

Nếu mình không đắm trước.

Sau đó được giải thoát.

Nếu hiểu rõ việc này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tùy mình tạo hành động.

Tự mình đến ác thú.

Hoặc đến cõi Phạm thiên.

Thưa hỏi vua Phạm thiên.

Do đâu đến chỗ này.

Ðược ở nơi Phạm thiên.

Phạm thiên liền đáp rằng.

Tùy hỏi mà trả lời.

Nay ta ở chỗ này.

Chưa từng sanh tà kiến.

Từ Phạm thiên khắp xem.

Ánh sáng bị thối chuyển.

Nay ta sẽ nói gì?

Thân ta trường thọ ư?

Nếu ai hiểu điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tự thân phạm phi pháp.

Tự nhiên khỏi khổ đau.

Như lửa không nghĩ rằng.

Ta sẽ đốt kẻ ngu.

Ngu tự sờ vào lửa.

Lại bị lửa thiêu thân.

Ba Tuần nên hiểu thế.

Dụng ý hướng Như lai.

Chỉ nguy hại thân mình.

Như lửa thiêu kẻ dại.

Người thích làm điều ác.

Thân họ mãi khổ đau.

Ðời sau không tự giác.

Ðừng nhiễu loạn Tỳ kheo.

Ma Sân chớ thử Phật.

Và nhiễu loạn đệ tử.

Mãi mãi không an ổn.

Phải sanh vào ác thú.

Bấy giờ ma hàng phục.

khủng bố Tỳ kheo.

Nghe như vậy ưu sầu.

Bỗng biến mất không hiện.

Ðức Phật nói như vậy, chư thiên, Long thần ai cũng đều hoan hỷ

 

PHẬT NÓI KINH TỆ MA THỬ TÔN GIẢ MỤC LIÊN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23962)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41221)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19694)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23986)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21747)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23312)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27505)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26575)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29318)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20196)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25777)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20915)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31319)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38578)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21442)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44264)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29832)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42212)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22141)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45764)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32112)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23959)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24393)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33920)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27683)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32136)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21066)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28855)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21585)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28065)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22075)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21441)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19502)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19470)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19835)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19249)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29188)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20625)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28301)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23650)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33187)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21377)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39627)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21551)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19380)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26397)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24830)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21758)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22390)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29135)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22559)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23518)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21240)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35327)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31342)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant