Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Tệ Ma Thí Mục Liên

15 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13258)
Kinh Tệ Ma Thí Mục Liên


PHẬT NÓI KINH TỆ MA THÍ MỤC LIÊN


 Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0067 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

 Hán dịch: Ðời Ngô Nguyệt Chi, Ưu bà tắc Chi Khiêm.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

--- o0o ---


 

Nghe như vầy: Một thời đức Phật đức Phật giáo hóa trong vườn nai, làng xóm Khủng Cụ, núi Diệu Hoa, nước Phàn Kỳ.

Bấy giờ hiền giả Ðại Mục Kiền Liên đang kinh hành trong đêm tối. Trong lúc tôn giả đang kinh hành trên khoảng đất trống, bấy giờ Tệ Ma đi đến chỗ Ngài, tự hóa hình nhỏ xíu, chui vào trong bụng của tôn giả Mục Liên. Lúc đó hiền giả Ðại Mục Kiền Liên nghĩ như vầy: “Trong bụng của ta tại sao lại có tiếng ầm ầm như sấm, giống như người đang đói mà gánh phải vật nặng. Vậy ta nên vào trong thất nhập chánh thọ tam muội quán sát để tìm căn nguyên”. Khi ấy tôn giả Mục Liên liền vào trong thất nhập tam muội để quán thân, tôn giả liền thấy Tệ Ma hóa hình nhỏ xíu chui vào bụng mình. Tôn giả liền nói rằng: “Này Tệ Ma, hãy đi ra đừng có quấy nhiễu đức Như laiđệ tử của Ngài, để rồi mãi mãi gánh lấy khổ đau, bất an, đọa vào ác xứ”.

Khi ấy trong tâm ma nghĩ rằng: “Nay Sa môn này chưa thấy ta, cũng chưa biết ta, thế mà dối nói rằng này Tệ Ma hãy đi ra, hãy đi ra, chớ có quấy nhiễu đức Như laiđệ tử của Ngài, sẽ mãi mãi bị khổ thống, bất an. Ngay như thầy của ông là Thế tôn Ðại thánh còn không thể biết được ta, huống chi là đệ tử của ông ta mà biết được ta sao?”.

Tôn giả Mục Liên lại nói với Tệ Ma: “Ta còn biết trong ý của ngươi nghĩ rằng Ðại sư của ông ta là bậc Ðại thánh còn không thể biết được ta huống chi là đệ tử mà biết được ta”.

Lúc ấy Tệ Ma liền sợ hãi nghĩ rằng: “Nay Sa môn này đã biết ta rồi”. Nó liền hóa hình nhỏ xíu nhảy ra đứng ở phía trước. Tôn giả Mục Liên bảo với ma: “Vào thời quá khứ lâu xa về trước, lúc đức Phật Câu Lâu Tần xuất thế, khi đó ta đã từng làm ma tên là Sân hận. Ta có một người em gái tên là Quỷ Hắc. Lúc đó mày là con trai của nó. Như vậy nên biết rằng mày là con của em gái ta”.

Bấy giờ đức Phật xuất hiệnthế gian hiệu là Câu Lâu Tần Như lai, bậc chí chơn Ðẳng chánh giác. Ngài có hai người đệ tử, người thứ nhất tên là Hồng Âm, người thứ hai tên là Tri Tưởng, là bậc tối tôn, nhân hiền thứ nhất không ai bằng.

Sao gọi hiền giả ấy là Hồng Âm? Vì tôn giả đó lúc sống trên trời Phạm thiên, tiếng nói của Ngài to lớn vang rền cả ba ngàn đại thiên thế giới.

Còn sao gọi hiền giả kia là Tri Tưởng? Vì tôn giả ấy hoặc nương ở chỗ thanh vắng, ngồi dưới gốc cây nơi đồng trống hay ở trong núi, liền nhập tam muội chánh thọ Như kỳ tượng. Lúc ấy có những người đang chăn dê, chăn trâu, người lấy củi gánh cỏ, cày ruộng, người đi đường, họ vào trong núi thấy Ngài nhập định như vậy, đồng bảo nhau rằng: “Vị Sa môn này ngồi ở đây mà chết, bọn chúng ta hãy cùng nhau chất củi và cỏ lên để hỏa thiêu”. Như lời nói ấy, họ cùng nhau hỏa thiêu ngài (trà tỳ).

Tỳ kheo Tri Tưởng từ tam muội đứng dậy, đập phủi y phục, dũ các tro bụi. Khi sửa lại y phục xong, tôn giả ôm bát vào thành, quốc ấp làng xóm để khất thực. Những người chăn trâu dê, lấy củi gánh cỏ đều rất kinh ngạc, nói với nhau rằng: “Chúng ta ở chỗ đồng trống vắng vẻ, thấy Tỳ kheo này ngồi dưới gốc cây mà chẳng còn hơi thở cho là đã chết nên cùng nhau chất củi, cỏ khô để hỏa thiêu ngài. Ngày nay vì vậy gọi Tỳ kheo Tri Tưởng là Tưởng Thức.

Bấy giờ ma Sân hận tự suy nghĩ: “Bọn Sa môn này tự cho là trì giới, vắng lặng không nói mà hành tư duy. Giống như con chó, con mèo suy nghĩ cách để bắt con chuột nên nó im lặng bất động, chờ con chuột ra là bắt. Sự thiền tư của Sa môn này cũng lại như vậy.

Giống như con hạc già muốn bắt con cá, nó im lặng không có tiếng động, trầm tư, chờ con cá ra là nó nuốt. Các Sa môn này cũng lại như vậy, trầm tư suy nghĩ về mục đích mong cầu.

Giống như con lừa trong ngày mang nặng, cho đến buổi tối mệt mõi, đói khát, nó chìm đắm trong suy nghĩ muốn được ăn uống. Các Sa môn này cũng lại như vậy.

Bấy giờ trong tâm của suy nghĩ: “Ta nên giáo hóa các trưởng giả Phạm chí ở trong nước này, đánh đập chưởi mắng, làm cho y rách, bát bể, đầu vỡ, các đạo nhơn, Sa môn giữ giới này, làm cho họ sanh tâm sân hận. Ta nhờ đó tìm được phương tiện”. Như điều suy nghĩ, ma liền xúi dục các trưởng giả Phạm chí đánh đập mắng chửi, đập bể bát, đánh vỡ đầu, xé rách y phục các Sa môn trì giới phụng pháp này. Các Sa môn này giống như con mèo bắt chuột, như con hạc bắt cá, giống như chim Chí kiêu đứng ở giữa cây để bắt chuột, các Sa môn ngồi thiền cũng lại như vậy, in như con lừa đói mệt mỏi.

Khi ấy các Tỳ kheo đều bị hủy nhục, cúi đầu đi thẳng đến chỗ đức Phật Câu Lâu Tần. Bấy giờ đức Phậtbốn chúng Thiên long quỷ thần nói rộng về kinh đạo, thấy các Tỳ kheo bị hủy nhục đi đến, Ngài bảo các Tỳ kheo : “Nay ma Sân hận đã xúi dục các trưởng giả Phạm chí ở trong nước đánh đập, mắng nhiếc, đánh bể đầu, đập bể bát, xé rách y của các Sa môn trì giới phụng pháp, làm cho tâm họ tức giận, khởi ý sân hận. Nhờ nhân duyên đó ma tìm được phương tiện làm cho những vị ấy không thành đạo.

Này các đệ tử, đối với trường hợp như vậy hãy nên thực hành bốn thứ bình đẳng: từ, bi, hỷ và hộ; không ôm lòng oán kết; không tâm sân hận; rộng lớn không hạn lượng; an lạc vô biên biến khắp mười phương. Với tâm như vậy dù ma có tìm phương tiện để phá hoại cũng không thể được.

Các Tỳ kheo vâng lời đức Phật dạy, ở một cách an nhàn nơi đồng trống, một lòng thiền định tư duy, thực hành bốn đẳng tâm, ý không tăng giảm. Bấy giờ ma sân hận tuy mong muốn được những tiện lợi nơi các Sa môn trì giới phụng pháp nhưng vĩnh viễn không thể được. Khi ấy những trưởng giả Phạm chí nghe lời ma xúi dục, hủy nhục Sa môn trì giới phụng pháp, sau khi mạng chung đều bị đọa vào đường ác, bị tra tấn khổ não, ở trong địa ngục thọ lãnh hóa thân của mình. Giống như cây lớn, bóng nó tỏa ra một khoảng đất trống to lớn. Ở trên mặt đất địa ngục như sắt đốt cháy, lõa hình, lịm mình vào đó. Họ đều bảo nhau rằng: “Chúng ta bạc phước, thọ lấy tai ương tệ ác hung bạo này là do chúng ta hủy nhục, mắng nhiếc Sa môn phụng pháp trì giới, vì vậy chúng ta mới vào đây. Than ôi! Không thể thấy được Sa môn phụng pháp trì giới, muốn cầu phương tiện nhân duyên để tương kiến, vì đã tự tạo điều này phải tự thọ lấy tai ương. Vì nghe theo ma xúi dục nên mới không thể che chở thân mình”.

Bấy giờ trong tâm của ma Sân hận nghĩ rằng: “Ta nhờ phương tiện này để tìm được sự tiện lợi nơi các Sa môn trì giới, nhưng hoàn toàn không thể được. Bây giờ ta phải biến hình xúi dục các trưởng giả Phạm chí rằng các ngươi hãy cúng dường phụng sự Sa môn trì giới, dùng áo quần, cơm ăn, giường nằm, thuốc men, khiến cho vị ấy tham sự cúng dường, nhờ nhân duyên đó ta mới có cơ hội”. Liền như mưu kế ấy, ma liền xúi các trưởng giả Phạm chí trong nước đến giữa ngã tư đường, nếu ở ngã tư đường thấy các Sa môn đạo nhân trì giới hãy trải tóc trên đất để các vị ấy đi qua và tán thán rằng: “Các ngài là những vị Sa môn trì giới siêng năng tu thân, khó thấy khó gặp, xin các ngài hãy đạp lên tóc của tôi để tôi mãi mãi được vô lượng phước”.

Hoặc có trưởng giả Phạm chí mang y phục đến chỗ các Sa môn trì giới đảnh lễ, quỳ xuống thưa rằng: “Xin các ngài thương xót chúng con nhận lấy y phục này”.

Hoặc họ mang đầy thức ăn đi đến tinh xá hoặc họ đến ngã tư, đầu các ngõ tắt trong làng dâng lên để cúng dường các Sa môn trì giới, thưa rằng: “Các ngài thật khó gặp khó thấy, xin các ngài hãy nhận vật cúng dường này để chúng con mãi mãi được phước vô lượng”.

Hoặc họ bồng các ngài, dìu các ngài, cõng các ngài vào nhà họ, mời ngồi trên giường đẹp, rồi họ mang ra các thứ phạn thực, y phục, cà sa, vàng bạc bảy báu để ở phía trước, quỳ mà thưa rằng: “Ngài là vị Sa môn trì giới khó gặp khó thấy, xin ngài hãy thọ nhận những vật cúng dường này. Xin các ngài vì lòng thương xót tự ý thọ dụng để con mãi mãi được vô lượng phước”.

Lúc đó, đức Phật Câu Lâu Tần vì bốn chúng chư thiên, long, thần thấy các đạo sĩ Sa môn trì giới được các trưởng giả Phạm chí đến gặp, cúng dường cung kính vô lượng. Ngài bảo các Tỳ kheo: “Nay ma sân hận xúi dục các trưởng giả Phạm chí cúng dường Sa môn đạo sĩ trì giới các thứ y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc men, tùy ý muốn gì cũng cúng dường đủ. Nhờ nhân duyên đó ma có cơ hội phá hoại thiện tâm vị ấy, làm cho không thể đắc đạo. Các ngươi hãy nên ở nơi núi non, đồng trống vắng vẻ suy niệm về sự vô thường của vạn vật. Tuy được áo cơm nhưng đừng tham đắm, phải quán thấy nó là khổ, không, phi thân. Ma tuy tìm cơ hội để phá hoại nhưng rốt cuộc vẫn không được.

Các Tỳ kheo liền vâng theo lời dạy của đức Câu Lâu Tần Như lai chí chơn, đẳng chánh giác, tu hành như pháp cho nên dù ma có tìm cơ hội vẫn không có.

Vì ma xúi dục cho trưởng giả Phạm chí bảo họ cúng dường Sa môn trì giới, nhờ công đức ấy nên họ đều được sanh lên trời. Khi họ sanh lên trời xong, họ đều suy nghĩ rằng: “Chúng ta nhờ cúng dường, thờ pháp của Sa môn trì giới thanh tịnh nên tự mình được phước này, không phải nhờ người khác hay trời mà có được như vậy”.

Bấy giờ đức Phật Câu Lâu Tần Như lai, bậc chí chơn đẳng chánh giác, sau khi thọ thực, lúc mặt trời xế bóng cùng đệ tử lớn của ngài là tôn giả Hồng Âm du hành nơi quận huyện. Khi ấy Tệ Ma hóa thành một người dũng mảnh to lớn, tay cầm gậy lớn đứng bên đường, lén giơ gậy lớn đập vào đầu tôn giả Hồng Âm làm bể đầu, máu chảy lênh láng. Bấy giờ tôn giả vẫn đi sau đức Thế tôn như bóng theo hình im lặng không nói. Ðức Câu Lâu Tần Như lai là bậc thánh không ai bằng, quay đầu nhìn lại miệng nói lời trách rằng: “Này ma sân hận, không biết kiềm chế đã tạo ra sự đại ác này”.

Khi ấy ma Sân hận ngay thân của nó liền đọa vào địa ngục, rồi hết ngục này đi đến ngục khác. Giống như con nòng nọc, con cá ra khỏi nước lên đất liền, giống như lột da trâu sống, dần dà trong địa ngục chịu sự thống khổ không sao nói được.

Lúc ấy ma Ba tuần nó ở trong địa ngục dần dần chịu sự đau đớn kịch liệt, trải qua ức năm, gấp bội ngàn vạn năm ở trong địa ngục ấy. Thí như có người thân bị bệnh cuồng, chạy đến chỗ bất an. Khi ấy này ma Ba tuần nó bị đọa vào đại địa ngục bị thống khổ vô lượng. Lúc đó ngục tốt đến nói rằng: “Ngươi nên biết rằng nếu có một cái thẻ là một con chim bay lên, trải qua mười ngàn vạn năm như vậy. So sánh như vậy cũng khó biết được số năm Tệ Ma ở trong địa ngục. Sau cùng mới ra khỏi địa ngục lại gặp ách nạn hơn hai vạn năm. Khi ấy Tệ Ma mới hết sầu khổ.

Ðức Phật nói cho tôn giả Mục Liên bài kệ rằng:

Ma sân phải chịu tội.

Ðịa ngục ấy thế nào.

Lúc Phật Câu Lâu Tần.

Hóa độ chúng đệ tử.

tai hoạn áo não.

Bị khảo trị tất cả.

Lửa đốt tự thiêu thân.

Lửa thiêu mặt thiêu hình.

Ðịa ngục ấy như vậy.

Ma Sân hận ở đó.

Lúc Phật Câu Lâu Tần.

Hồng Âm đệ tử lớn.

Giả sử trước đức Phật.

Và xem các Tỳ kheo.

Do duyên đó thọ tội.

Tại vì làm nhiễu loạn.

Nếu ưa thích phê bình.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Phải thọ tai ương này.

Sanh nơi cực khổ hoạn.

Như người nhảy vực sâu.

Bỏ mất cung điện lớn.

Không ở với ngọc nữ.

Bỏ thú vui cõi trời.

Ai hiểu rõ điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Từ đó được thoát ra.

Nguy hại đọa khổ hoạn.

Ma nên biết thân ta.

Nương vào cửa giải thoát.

Không thiên xứ, thiên nhơn.

 Trời Danh Văn Ðao Lợi.

Nếu phân biệt như vậy.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tự thân phạm phi pháp.

Do đó vào đường dữ.

Ai dùng một ngón chân.

Rung động cung tối thắng.

Xử dụng thần túc lực.

Ðại cảm ứng Mục liên.

Ai hiểu rõ điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Nếu hưng lập tự thân.

Sao lại đọa ác thú.

Ví có trăm đoan chánh.

Ngọc nữ đẹp vi diệu.

Thấy Tỳ kheo thiền tư.

Liền không ở viên quán.

phân biệt như vậy.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tỳ kheo tự tạo nghiệp.

Hoặc bị đọa ác thú.

Giả sử cùng hòa đồng.

Ðến hỏi trời Ðế Thích.

Thiên đế hiểu hay không.

Nhơn đâu được giải thoát.

Lúc phát khởi thích ứng.

Tùy theo người hỏi đáp.

Nếu mình không đắm trước.

Sau đó được giải thoát.

Nếu hiểu rõ việc này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tùy mình tạo hành động.

Tự mình đến ác thú.

Hoặc đến cõi Phạm thiên.

Thưa hỏi vua Phạm thiên.

Do đâu đến chỗ này.

Ðược ở nơi Phạm thiên.

Phạm thiên liền đáp rằng.

Tùy hỏi mà trả lời.

Nay ta ở chỗ này.

Chưa từng sanh tà kiến.

Từ Phạm thiên khắp xem.

Ánh sáng bị thối chuyển.

Nay ta sẽ nói gì?

Thân ta trường thọ ư?

Nếu ai hiểu điều này.

Tỳ kheo đệ tử Phật.

Tự thân phạm phi pháp.

Tự nhiên khỏi khổ đau.

Như lửa không nghĩ rằng.

Ta sẽ đốt kẻ ngu.

Ngu tự sờ vào lửa.

Lại bị lửa thiêu thân.

Ba Tuần nên hiểu thế.

Dụng ý hướng Như lai.

Chỉ nguy hại thân mình.

Như lửa thiêu kẻ dại.

Người thích làm điều ác.

Thân họ mãi khổ đau.

Ðời sau không tự giác.

Ðừng nhiễu loạn Tỳ kheo.

Ma Sân chớ thử Phật.

Và nhiễu loạn đệ tử.

Mãi mãi không an ổn.

Phải sanh vào ác thú.

Bấy giờ ma hàng phục.

khủng bố Tỳ kheo.

Nghe như vậy ưu sầu.

Bỗng biến mất không hiện.

Ðức Phật nói như vậy, chư thiên, Long thần ai cũng đều hoan hỷ

 

PHẬT NÓI KINH TỆ MA THỬ TÔN GIẢ MỤC LIÊN

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27181)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21773)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22234)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23613)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20431)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24759)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18994)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24771)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30984)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23994)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26526)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21328)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23232)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38142)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18806)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19988)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19052)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23175)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23893)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22926)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29587)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20647)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18714)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15849)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19689)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20160)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22948)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34176)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16425)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16921)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39266)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20100)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18862)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24067)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29152)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30969)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21014)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26862)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26269)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23340)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30048)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20231)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20410)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15146)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15841)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23909)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19864)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant