Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Ứng Pháp

17 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13700)
Kinh Ứng Pháp

PHẬT NÓI KINH ỨNG PHÁP


Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0083 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Ðời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---


Nghe như vầy:

Một thời Bà già bà ở tại xứ Pháp Trị, nước Câu loại. Bấy giờ đức Phật bảo các Tỳ kheo:

–Nay ở thế gian này, dâm như vậy, dục như vậy, ái như vậy, lạc như vậy, hỷ như vậy, chỉ là pháp bại hoại không nên ái, không nên nhớ nghĩ. Nếu ái và nhớ nghĩ tăng, thì các thứ dâm như vậy, dục như vậy, ái như vậy, lạc như vậy, hỷ như vậy, khiến cho bất thiện pháp chuyển tăng, ái thiện pháp chuyển giảm. Pháp của ta rất sâu xa, khó thấy, khó giác, khó rõ, khó biết. Pháp của ta thậm thâm khó thấy, khó giác, khó rõ, khó biết như vậy, mà nay khiến cho sự không ưa thiện pháp tổn giảm, sự ưa thiện pháp tăng trưởng, cùng bốn pháp này tương ưng, thế gian có việc này. Thế nào là bốn?

–Có pháp tương ưng hiện tại vui nhưng về sau thọ quả báo khổ.

–Có pháp tương ưng hiện tại khổ nhưng về sau thọ quả báo vui.

–Có pháp tương ưng hiện tại khổ, về sau thọ quả báo khổ.

–Có pháp tương ưng hiện tại vui, về sau thọ quả báo vui.

+ Thế nào là có pháp tương ưng hiện tại vui, về sau thọ quả báo khổ?

Hoặc có người tự mình chuyên ưa thích, hoan hỷ làm việc sát hại, nhân việc sát mà lấy làm sung sướng, lấy làm hoan hỷ. Kẻ ấy sung sướng, hoan hỷ việc không cho mà lấy, hành dâm dục, nói dối, cho đến tà kiến. Nhân tà kiến này mà lấy đó làm hoan hỷ, lấy đó làm vui sướng. Kẻ ấy thân ưa thích, ý ưa thích việc bất thiện như vậy là bất thiện, nên cũng không đạt được thần thông, không đưa đến Ðẳng Ðạo, không tương ưng với Niết-bàn. Pháp này tương ưng hiện tại vui sướng nhưng về sau thọ quả báo khổ.

+ Thế nào là pháp tương ưng hiện tại khổ nhưng về sau thọ quả báo vui?

Hoặc có người chuyên tự làm khổ, không làm vui, từ bỏ nguyên nhân sát hại, từ bỏ sát hại, vì làm khổ, vì làm không vui, kẻ ấy tự làm khổ, không thích làm việc không cho mà lấy, hành dâm dục, nói dối ... cho đến tà kiến. Nhân xả bỏ tà kiến, làm đẳng kiến, cho là khổ, cho là không vui. Thân hành khổ, ý hành khổ, như vậy thiện là thiện, thành thần thông, đưa đến Ðẳng đạo, cùng tương ưng với Niết - bàn, cùng tương ưng với pháp này cho nên hiện tại khổ nhưng về sau thọ quả báo vui.

+ Thế nào là pháp tương ưng hiện tại khổ, về sau thọ quả báo khổ?

Hoặc có người chuyên tự làm khổ, tự mình không hoan hỷ, làm việc giết hại, nhân giết hại cho nên mới bị khổ, không hoan hỷ. Kẻ ấy tự mình khổ, tự làm điều không hoan hỷ, không cho mà lấy, hành dâm dục, nói dối ... cho đến tà kiến. Nhân tà kiến mới không được an lạc, không hoan hỷ. Thân làm khổ, ý làm khổ như vậy, làm bất thiện phải thọ lãnh bất thiện, không thành thần thông, không đưa đến Ðẳng đạo, không tương ưng với Niết bàn. Tương ưng với pháp này cho nên hiện tại khổ, về sau thọ báo khổ.

+ Thế nào là pháp tương ưng hiện tại vui, về sau thọ quả báo vui?

Hoặc có người chuyên tự làm điều vui, tự làm việc hoan hỷ, xả bỏ việc sát hại, nhân xả bỏ sát hại lấy đó làm vui, lấy đó làm thích. Kẻ ấy vui thích xả bỏ việc không cho mà lấy, hành dâm dục, nói dối, cho đến tà kiến. Nhân xả bỏ tà kiến cho đó là vui, cho đó là thích. Thân ưa thích, ý ưa thích, như vậy, làm thiện là thiện nên thành thần thông, cho đến Ðẳng đạo, cùng tương ưng với Niết bàn, cho nên hiện tại vui mà đời sau thọ báo vui.

Cái gọi là cùng pháp này tương ưng hiện tại vui, về sau thọ báo khổ, không phải là huệ, người có trí huệ thuyết, không biết như chơn, cùng tương ưng với pháp này cho nên hiện tại vui mà về sau thọ báo khổ. Kẻ ấy không biết như chơn như vậy, làm mà không xả bỏ. Vì kẻ ấy làm mà không xả bỏ cho nên pháp không ái, không lạc được tăng trưởng, còn pháp đáng ái, đáng lạc thì trở lại bị tổn giảm, giống như loại thuốc A Ma Ni, đầy đủ sắc, đầy đủ hương, đầy đủ vị, vì xen lẫn với độc, có người bị bệnh liền uống vào. Kẻ đó uống vào khỏi miệng, khi uống thuốc không dừng ở cổ, uống xong liền biến thành chẳng phải thuốc. Như vậy cùng pháp này tương ưng hiện tại vui mà về sau thọ báo khổ, chẳng phải là trí tuệ, vì chẳng phải là trí tuệ cho nên không biết như chơn, cùng pháp này tương ưng, hiện tại vui mà về sau thọ báo khổ. Vì kẻ ấy không biết như chơn, thực hành, không xả bỏ. Vì kẻ ấy thực hành không xả bỏ cho nên pháp không ái, pháp không lạc tăng trưởng; còn pháp ái, pháp lạc thì lại tổn giảm. Pháp đó chẳng phải là trí tuệ vậy.

Tương ưng với pháp này, hiện tại khổ mà về sau được quả báo vui, chẳng phải trí tuệ, vì chẳng phải trí tuệ cho nên không biết như chơn, cùng pháp này tương ưng cho nên hiện tại khổ, về sau thọ quả báo vui. Kẻ ấy không biết như chơn, cũng không hành, lại xả bỏ, do kẻ ấy không thực hành mà lại xả bỏ cho nên pháp không ái, không lạc tăng trưởng, còn pháp ái, hỷ thì bị tổn giảm. Pháp này chẳng phải trí tuệ, vì tương ưng với pháp ấy cho nên hiện tại khổ mà về sau thọ báo khổ, chẳng phải là trí tuệ, vì chẳng phải là trí tuệ, cùng pháp này tương ưng cho nên hiện tại khổ, về sau thọ báo khổ. không biết như chơn nên kẻ ấy làm mà không bỏ, vì kẻ ấy làm mà không bỏ cho nên pháp không ái, không lạc tăng trưởng, mà pháp ái, pháp lạc thì bị tổn giảm, giống như đại tiện tiểu tiện bị độc tố rồi có người có bệnh lấy thứ đó mà uống, khi kẻ ấy uống, cổ đau đớn không nuốt xuống được và hôi thối, vô vị. Khi uống vào làm hư cổ, uống xong biến thành chẳng phải thuốc. Như vậy tương ưng với pháp này nên hiện tại khổ, về sau thọ báo khổ. Vì không biết như chơn, tương ưng với pháp này nên hiện tại khổ, về sau thọ báo khổ. Vì kẻ ấy không biết như chơn, thực hành không xả bỏ, vì thực hành không xả bỏ cho nên pháp không ái, không hỷ dần dần tăng trưởng, còn pháp ái, hỷ dần dần bị tổn giảm. Pháp này không phải trí tuệ vậy.

Tương ưng với pháp này hiện tại vui, về sau được quả báo vui, chẳng phải trí tuệ, do bậc trí tuệ nói ra, không biết như chơn, tương ưng với pháp này hiện tại vui, về sau được quả báo vui. Kẻ ấy không biết như chơn nên không thực hành việc xả bỏ xa lìa. Vì không vứt bỏ, không xa lìa nên pháp không ái, không hỷ dần dần tăng trưởng, còn pháp ái, hỷ dần dần tổn giảm. Pháp này chẳng phải trí tuệ, kẻ ấy thực hành pháp biết như chơn, kẻ ấy không thực hành pháp biết như chơn, kẻ ấy thực hành pháp tri như chơn, kẻ kia không thực hành pháp tri như chơn nên chưa thực hành pháp đáng hành, hành pháp không đáng hành. Kẻ ấy chưa hành pháp đáng hành mà lại hành pháp không nên hành, do đó bất thiện pháp dần dần tăng trưởng, thiện pháp dần dần tổn giảm. Pháp này chẳng phải trí tuệ.

Tương ưng với pháp này hiện tại vui, về sau thọ báo khổ, do bậc trí tuệ, người trí tuệ nói ra, biết như chơn. Vì tương ưng với pháp này nên hiện tại vui, về sau thọ báo khổ. Kẻ ấy tri như chơn như vậy, kẻ ấy không làm mà xả bỏ, viễn ly, do không làm, xả bỏ viễn ly rồi, kẻ ấy liền không làm, xả bỏ viễn ly nên pháp bất thiện tổn giảm, thiện pháp được tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ.

Tương ưng với pháp này hiện tại khổ, về sau thọ báo vui. Ðó là trí tuệ, bậc trí giả nói ra, biết điều này chơn thật, vì kẻ ấy tương ưng với pháp này nên hiện tại khổ, về sau thọ quả báo vui, người ấy tri như chơn như vậy. Kẻ ấy làm không xả bỏ, không làm không xả bỏ rồi, pháp không ái, không hỷ tổn giảm, pháp ái, pháp hỷ tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ, giống như đại tiểu tiện các thứ dược thảo xen lẫn, có người bị bệnh lấy để uống. Khi kẻ ấy uống, không dừng ở cổ, lúc uống làm phá hoại cổ, uống xong công hiệu như dược pháp. Như vậy tương ưng với pháp này hiện tại khổ, nhưng về sau thọ báo vui. Ðó là trí tuệ, trí giả nói ra, biết như chơn. Ðó là tương ưng pháp này hiện tại khổ, về sau thọ báo vui. Kẻ ấy biết như chơn như vậy, thực hành không xả bỏ, do hành không xả bỏ rồi cho nên pháp không ái, không hỷ tổn giảm, pháp ái, hỷ được tăng trưởng. Pháp đó là trí tuệ.

Tương ưng pháp này hiện tại khổ, về sau thọ quả báo khổ, là bậc trí tuệ, bậc trí tuệ nói ra, biết như chơn. Ðó là tương ưng với pháp này, hiện tại khổ, sau thọ quả báo khổ, kẻ ấy tri như chơn như vậy, kẻ ấy không làm sự xả bỏ xa lìa, vì không thực hành sự xả bỏ xa lìa nên pháp không ái, không hỷ tổn giảm; pháp ái, hỷ được tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ.

Tương ưng pháp này hiện tại vui, về sau thọ quả báo vui. Ðó là pháp trí tuệ do bậc trí tuệ nói ra, nghĩa là tương ưng pháp này hiện tại vui, về sau thọ quả báo vui. Vị ấy biết như vậy là chơn thật, vị ấy biết pháp nào cần xả ly, hoặc không cần xả ly, cho nên pháp không yêu thích thì giảm trừ, pháp yêu thích được tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ. Giống như tô mật xen lẫn các thứ thuốc, có người bị bệnh liền uống vào, khi uống vào làm cho cổ thông lợi, khi uống không dừng ở cổ, uống xong ứng nghiệm như dược pháp. Như vậy tương ưng với pháp này hiện tại vui, về sau thọ báo vui. Ðó là trí tuệ, bậc trí tuệ nói ra, biết như thật. Ðó là tương ưng với pháp này, hiện tại được vui, về sau thọ báo vui. Kẻ ấy biết như vậy là chơn thật, hành bất xả ly, do hành bất xả ly nên pháp không yêu thích và không đáng nhớ nghĩ bị tổn giảm và pháp yêu thích, nhớ nghĩ được tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ, bậc trí tuệ nói ra, vị ấy thực hành pháp này rồi, biết như thật, không hành pháp này rồi biết như thật; vị ấy hành pháp biết như thật, không hành pháp biết như thật. Pháp không hành liền không hành, pháp nên hành thì phải hành. Kẻ ấy, pháp không hành liền không hành, pháp nên hành thì phải hành, nên pháp bất thiện được tổn giảm, pháp thiện được tăng trưởng. Pháp này là trí tuệ, trí tuệ, tương ưng với bốn pháp này, thế gian có thuyết này, đó chính là nguyên nhân thuyết kinh này.

Ðức Phật nói như vậy, các Tỳ kheo nghe đức Thế tôn đã dạy, hoan hỷ vui mừng.

 

PHẬT NÓI KINH “ỨNG PHÁP” 

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11634)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11958)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11109)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11342)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12062)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12556)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10764)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17975)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11725)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9946)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10168)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15338)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11239)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14326)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12095)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15362)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11999)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12405)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11183)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12085)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10603)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12554)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13168)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14837)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12676)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16571)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19661)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13106)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12663)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12252)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11844)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10899)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13521)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11947)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11840)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11632)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12764)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14514)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12613)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15665)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13625)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12894)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9863)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11163)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9078)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13044)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10298)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12187)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15309)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16609)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12214)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11472)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14269)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19698)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14149)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24606)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10680)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant