Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật Nhập Niết Bàn Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ Ai Luyến

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14876)
Kinh Phật Nhập Niết Bàn Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ Ai Luyến


KINH PHẬT NHẬP NIẾT BÀN MẬT TÍCH KIM CƯƠNG LỰC SĨ AI LUYẾN


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394

Nguyên tác Hán ngữ [1]
Mất tên người dịch sang Hán. Nay căn cứ theo bản trong Tần lục.

Việt dịch: Lệ Nhã

--- o0o ---
 

Tại rừng Sa-la, thành Câu-thi-na, Thế Tôn nằm xoay đầu về phía bắc mà vào niết-bàn. Lực sĩ Mật Tích Kim Cương thấy Thế Tôn diệt độ, buồn khóc thảm thiết rồi cảm than: “Thế Tôn thành tựu mười lực[1] tối thắng vô thượng, vì sao nay bị vô thường biến hoại, khí lực suy yếu làm tổn hoại như thế? Như Lai bỏ con mà nhập niết-bàn. Từ nay con không có chỗ trở về, không nơi nương tựa, không ai che chở, không ai bảo vệ, lo sợ tai họa bỗng chốc ập đến. Mũi tên độc buồn phiền đã trúng vào tim con!”.

Nói xong, lực sĩ Mật Tích Kim Cương luyến mộ không muốn rời xa Thế Tôn, lửa buồn đau càng cháy mạnh, cắt đứt cả ngũ tạng, nghiền nát tận tâm can, đến nỗi ngất xỉu té xuống đất như núi lở, hồi lâu mới tĩnh, liền đứng dậy rồi ngồi xuống nghẹn ngào buồn khóc, rồi sụt sùi nói: “Lạ thay, lạ thay! Tử ma thật đáng sợ! Thế Tôn đã chứa nhóm vô lượng công đức ba-la-mật mà còn bị tử ma kia hoại diệt!”.

Lực sĩ Mật Tích Kim Cương than khóc xong, lại nói: “Xin Chân Tế[2] vì con mà tỉnh thức. Nay con phúc mỏng, không có chỗ nương tựa, vì sao Thế Tôn bỏ con một mình mà nhập niết-bàn? Từ nay về sau, con mãi mãi xa lìa dung nhan của Như Lai, không nhìn thấy ba nghiệp thân, khẩu, ý vắng lặng của Ngài, lại không thấy Phật Bà-già-bà[3] nhập Phật trụ”.

Khi xưa, Như Lai vào tam-muội Phật trụ, ánh sáng uy đức của Ngài tuyệt diệu gấp bội. Khuôn mặt Ngài tươi sáng hơn hoa sen mới nở, như mặt trời mới mọc toả sáng buổi ban mai. Khuôn mặt của Người như thế mà con lại không còn thấy được. Lại không thể nghe âm thanh như sấm lớn, âm thanh vi diệuNhư Lai phát ra giữa đại chúng. Con cũng không nghe được lời nói chân thật không hai của Như Lai, lời nói xa lìa sai lầm tai họa, lời nói không dua nịnh, lời nói dễ hiểu, lời nóimọi người ưa thích. Pháp có thể trừ diệt các việc ác thế gian, đưa đến thành Cam lộ, không pháp nào hơn Phật pháp. Ôi thay! Đấng Chân Tế mãi mãi nhập niết-bàn, khiến các chúng sinh không có ai cứu giúp, ở giữa cánh đồng sinh tử mà mù mắt, lại lìa xa bậc thầy thì ai chỉ đường đây?

Như Laiđám mây lớn dày để có thể rưới nước cam lộ, nhưng lại bị gió vô thường thổi tan. Tất cả chúng sinh bị ngọn lửa ái dục đốt cháy, mà nay Như Lai nhập niết-bàn thì ai rưới mưa pháp để dập tắt ngọn lửa ái dục kia? Nay Như Lai đã diệt trừ pháp hữu vi, chứng đạo vô thượng, làm Đại y vương cho chúng sinh. Tất cả chúng sinh ở trong thế giới đều bị bệnh phiền não làm đau khổ, nay Như Lai nhập niết-bàn thì ai thương xót dùng chính pháp giáo hóa để chữa trị bệnh kết sử cho các chúng sinh? Như Lai là người biết ân và nhớ ân, từ khi còn trong bào thai cho đến nay, con luôn theo Như Lai như bóng theo hình, hòa thuận, kính vâng theo, chưa từng làm gì sai trái. Vì sao Như Lai không cảm nghĩ đến lòng chí thành của con, lại bỏ con một mình, như người quên ân vậy?

Ôi, kì lạ thay! Ôi, đau khổ thay! Chày kim cương này dùng để bảo vệ ai đây? Nên lập tức ném bỏ chày kim cương này thôi! Từ nay về sau con sẽ hầu hạ ai? Ai sẽ xót thương dạy bảo cho con? Đến bao giờ con mới được nhìn thấy dung nhan của Như Lai? Vua bảo hộ thế gian[4] tuôn cam lộ, nên sai con đến bảo vệ Như Lai, nhưng nay Ngài lại bỏ con nhập niết-bàn? Mạng sống của con tồn tại là nhờ vào Như Lai, nay bỗng chốc Ngài bỏ con, con sẽ nương tựa vào ai để được tồn tại tính mạng này?

Ôi! Như Lai xót thương tất cả chúng sinh nên thường nói pháp vi diệu để giáo hóa, vì sao hôm nay Như Lai nhập niết-bàn mà không nói một lời?

Nhất thiết chủng trí, sở tri của Như Lai vượt trên tất cả trí, nên đối với chúng sinh có duyên, Như Lai luôn nghĩ muốn giáo hóa, giúp họ được lợi ích. Thế thì ngày nay Như Lai phải đi đâu mà nhập niết-bàn, lại không giáo hóa cứu giúp chúng sinh? Các ma, kẻ ác thấy Như Lai nhập niết-bàn đều rất vui mừng. Như Lai là thuyền trưởng trong biển sinh tử, nhưng ngày nay Như Lai mãi mãi bỏ việc cứu vớt chúng sinh. Vô lượng kiếp đến nay, các chúng sinh này trôi theo dòng sinh tử, chỉ có Như Lai mới có thể dùng chính đạo khiến các chúng sinh thoát dòng sinh tử này. Như Lai mãi mãi đoạn trừ phiền não, vì chúng sinh ngu muội nên Ngài hiện ánh sáng lớn. Nhưng nay Như Lai nhập niết-bàn, chúng sinhthế gian càng thêm tăm tối, mãi mãi bị vô minh che lấp.

Lực sĩ Kim Cương Mật Tích xót thương, sầu não, lại nói: “Như Lai đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân trăm phúc[5], thì làm sao hủy diệt, mãi mãi không thể trông thấy?

Buồn thay, bậc phá dẹp ác ma! Buồn thay, bậc chuyển pháp luân! Buồn thay, bậc hay diệt tắt ánh sáng đom đóm ngoại đạo! Buồn thay, bậc hay phá hoại thân hữu lậu! Buồn thay, bậc làm toà thành trí tuệ. Buồn thay, đèn chính pháp bị gió vô thường thổi tắt! Buồn thay, mặt trăng chính pháp bị La-hầu A-tu-la nuốt mất”.

Lực sĩ Mật Tích Kim Cương lại nói: “Đại Tịch Chân Tế, xin nói cho con biết, hôm nay Ngài đi đâu? Đến phương nào? Đến nước nào? Hay Như Lai đến Xá-vệ và thành Vương Xá, đến Ca-tì-la-vệ, hay đến Ba-la-nại? Như Lai ở đâu tại các nước này? Ở rừng nào, là vườn tre Ca-lan-đà, rừng Kì-đà hay rừng Am-bà-la? Như Lai ở nơi đâu trong các rừng này? Là ở núi nào, ở núi Bạch Thiện, núi Tì-hê hay núi Kì-xà-quật? Trong các núi này, Như Lai ở núi nào? Xin Ngài nói cho con biết chính xác nơi đâu?”.

Tám bộ chúng, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già v.v… đều thấy con thường đi theo Phật. Nếu họ có hỏi con Như Lai đi đâu thì con sẽ trả lời họ như thế nào?

Khi xưa, Thế Tôn giáo hóa chúng sinh, nếu thân thể có chút mỏi mệt thì Ngài nghỉ ngơi trong chốc lát. Ngài để tâmviệc làm lợi ích cho chúng sinh, vì sao hôm nay Như Lai bỏ tất cả họ mà nhập niết-bàn, không làm lợi ích nữa?

Xin Như Lai vì chúng con mà thức dậy. Lửa buồn đau đốt cháy trong tâm con, tính mạng sắp không giữ được nữa rồi! Cúi xin Ngài ban cho con một lời, giống như gáo nước lạnh dập tắt ngọn lửa trong lòng con. Nay con bị rắn độc buồn đau cắn, xin Ngài ban cho con thuốc A-già-đà[6] để trừ chất độc đó. Mũi tên độc buồn đau bắn trúng tim con, xin Ngài ban cho con chiếc kiềm lời nói để nhổ nó ra. Như Lai thường nói pháp để tất cả chúng sinh đoạn trừ ái biệt li khổ. Vì sao Như Lai không thương xót, diệt trừ các khổ này cho con?

Như con ngày nay, trong lòng buồn đau, nên tâm trí mờ mịt, không thể suy tìm nghĩa lí để tự chữa lành căn bệnh buồn đau trong tâm và các lời nói dua nịnh. Vì sao Thế Tôn không an ủi con? Tâm cung kính, tùy thuận không biết mõi mệt của con thích nhìn dung nhan của Như Lai mà không chán. Dù té ngã xuống đất thì con cũng nguyện được chiêm ngưỡng dung nhan của Như Lai. Vì sao Như Lai không thương xót con? Ngưu vương diệt kết thường cưỡng ép con, vì sao Thế Tôn không dẫn con nhập niết-bàn mà bỏ con lại một mình? Con mất Như Lai thì có vô lượng vô số nỗi khổ bức bách, không thể chứng ngộ chân lí, vì sao Như Lai bỏ con lại một mình mà nhập niết-bàn?

Lạ thay! Lạ thay! Như Lai ngủ luôn không thức dậy sao? Như Lai đi rồi không trở lại sao? Như đèn tắt thì không sáng trở lại, như lầu báu sụp đổ thì không dựng lại được, như kho báu bị mất thì không thể xuất hiện lại.

Mật Tích Kim Cương lại giơ tay, kêu gào khóc lóc, như sợi dây giữ cây cờ của Đế Thích bị đứt, ngã xuống đất không dựng lên được. Gào khóc một hồi lâu, ruột gan, cổ họng, môi lưỡi của lực sĩ đều bị khô nứt, mê man ngã xuống đất, hồi lâu mới tỉnh lại. Vừa tỉnh lại, vì quyến luyến thân công đức của Như Lai nên ông nắm chặt bàn chân luân tướng[7] của Như Lai mà không buông và nói: “Bàn chân của Như Lai như hoa Ưu-bát-la, như mặt trời mới mọc trong sáng và mát dịu. Bàn chân đứng vững, bàn chân có thiên bức luân tuyệt đẹp và tinh xảo, không ai có thể vẽ được. Chuyển luân thánh vương có tướng này nhưng không rõ ràng. Còn tướng bức luân nơi bàn chân của Như Lai thì hiện đầy đủ và rõ ràng, từng ngón thon dài, đều đặn khít nhau, không có khe hở, móng hồng như đồng nguyên chất. Giữa các ngón tay, ngón chân của Như Lai đều có màng mỏng như bàn chân ngỗng. Bàn chân đầy đặn, không nổi gân mạch, da không nhăn. Bấy giờ vua cõi trời, vua cõi người, các quỉ thần vương và long vương đều đội mũ trời đến đỉnh lễ dưới chân Phật. Như Lai dùng bà chân tướng luân đi khắp thế gian để giáo hóa tất cả chúng sinh có duyên, nhưng nay chân của Như Lai không còn dùng nữa!”.

Khi xưa, tâm con thường vui vẻ, chỉ trong chốc lát Như Lai nhập niết-bàn thì tâm con không còn vui vẻ. Vô thường này rất đáng sợ, có thể phá hoại sắc thân vô lượng công đức không thể nghĩ bàn. Uy lực của Như Lai có thể làm cho người thấy thân tâm được vui vẻ, vô lượng phúc lực có thể giữ gìn thân Như Lai, nhưng lực vô thường thật lớn lao, có thể làm cho thân Như Lai đi vào chỗ chết. Như Lai dù có lực nuôi dưỡng của cha mẹ, lực thiền định, lực trí tuệ, lực thần thông, nhưng không thể tự thoát khỏi lực vô thường.

Ngày xưa, A-nan khuyến thỉnh Thế Tôn trụ lại đời thêm một kiếp, vì sao Như Lai không nhận lời thỉnh cầu đó? Khi xưa trong ba a-tăng-kì-kiếp, Như Lai đã tu trăm nghìn hạnh khổ, đã bỏ tất cả những việc khó bỏ. Trải qua vô lượng kiếp, Như Lai làm thị giả các Đức Phật, tôn thờ cúng dường, cầu Nhất thiết trí để hóa độ chúng sinh. Nhưng mới trải qua một thời gian ngắn, Như Lai độ chưa được bao nhiêu người thì liền nhập niết-bàn. Khi xưa, Như Lai còn làm bồ-tát đã giáo hóa chúng sinh mà không biết mỏi mệt, nhưng nay Như Lai có thể mỏi mệt sao? Chúng sinh ở trong pháp uế như con nghé mới sinh được mười hai tuần, thì sao có thể không cho bú mà bỏ đi? Thế nên, xin Ngài vì con mà thức dậy để ban cho những chúng sinh trong pháp uế được no đủ sữa ngọt.

Đế Thích và vài ức chư thiên đến gạn hỏi, vì sao Như Lai không nói pháp cho họ nghe? Phạm thiên vương, chủ nghìn thế giới chắp tay thỉnh Ngài giảng pháp, nhưng hôm nay vì sao Như Lai không nói đầy đủ pháp yếu để thỏa mãn những ước nguyện của họ? Thiên vương Tì-sa-môn thống lĩnh mấy nghìn vạn dạ-xoa, đề-đầu-lại-trá, càn-thát-bà, tì-lưu-lặc-xoa, cưu-bàn-trà, tì-lưu-bác-xoa và các loại rồng vây quanh Như Lai. Họ vì muốn được uống pháp cam lộ mà đến chỗ này, nhưng vì sao Như Lai không lấy thuốc hay chữa trị các bệnh cho họ? Các chúng ngoại đạo đang phỉ báng Phật pháp, vì sao Như Lai không mau thức dậy để hủy diệt tà luận kia? Chủ cõi Dục phá hoại khắp nơi, vì sao Như Lai không hàng phục họ? Các bậc thanh văn trí tuệ thấp kém, không siêng năng tu tập, nhàm chán đa văn, vì sao Như Lai không mau thức dậy lược nói pháp yếu để cho họ biết chính đạo? Đến như A-nan là người gần gũi Đức Phật, làm thị giả Ngài mà chưa đoạn trừ gốc rễ kết sử, vì sao Như Lai không giảng dạy để A-nan đoạn trừ hết kết sử?

Than ôi, kì lạ thay! Như Lai là người đại phúc đức chắc thật như thế, nhưng bị vô thường hoại diệt trong một sớm. Vô thường này như voi Hộ Tài tàn hại vô số, thân của nó to lớn như núi. Khi xưa Như Lai còn có thể hàng phục voi lớn như thế, vì sao nay lại bị vô thường điều phục đến nỗi phải diệt tận?

Như rồng A-bà-la có thể phá hoại nước Ma-kiệt-đà, nổi sấm sét, kéo mây đen dày, tuôn mưa đá phá hoại cây cối mà Như Lai có thể hàng phục được, nhưng ngày nay ngược lại Như Lai bị vô thường chế phục.

Như Ương-quật-ma-la tàn bạo, hung ác và có sức mạnhNhư Lai còn có thể điều phục được. Mâu-ni Thế Tôn điều phục được những kẻ không thể điều phục, nhưng lại bị vô thường hoại diệt. Như ác quỉ nơi đồng trống giết hại mọi người, khiến cho trong nước trống vắng, Như Lai còn có thể hàng phục khiến chúng thụ trì giới, nhưng nay lại bị sợi dây vô thường hủy diệt.

Như ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp chấp ngã nên bị chìm đắm trong rừng tà kiến không thể ra khỏi. Vậy mà Như Lai vẫn xót thương hiện mười tám loại thần túc biến hóa để hàng phục tà kiến đó, nhưng nay thân Như Lai bị vô thường xô ngã. Tất cả chúng sinh phúc mỏng, biển trí tuệ bị mặt trời vô thường làm khô cạn. Tu-di chính trí bị chày kim cương vô thường đập nát. Cây công đức Phật thường trổ hoa pháp và quả đạo đã bị rìu vô thường chặt đứt. Ánh sáng trí tuệ rộng lớn, danh tiếng vang khắp thế giannăng lực đốt cháy củi hữu sinh, nhưng nay bị dòng nước vô thường dập tắt. Sức mạnh vô thường không có pháp nào ngăn chặn, không thể bị người trí chế ngự. Cho dù sức mạnh của tâm siêng năng dũng mãnh, của thế lực vững mạnh, của tâm nhu hòa vang khắp, của tịch định điều phục các căn cũng không thể thoát khỏi.

Ôi! Vô thường hung bạo như thế! Nó không phân biệt người tốt kẻ xấu, người có đức hay không có đức v.v… tất cả đều bị nó hủy hoại.

 Mật Tích Kim Cương nói lời này xong, mặt đất chấn động, đỉnh núi sụp đổ, sao lớn rơi rụng, lửa cháy bốn phía, mặt trời mặt trăng và các ngôi sao đều mất ánh sáng, tất cả trời, người đều không vui mừng. Mật Tích lại than tiếp: “Hôm nay thân thể con không thể tự đứng dậy, sắp vùi vào lòng đất, trước mắt tối đen, tâm ý hổn loạn, không nhớ được gì, môi lưỡi khô rát, ngôn từ lộn xộn, giọng nói khàn đặc, cái chết đã gần, mạng sống sắp tuyệt. Thế mà Như Lai mãi mãi bỏ con mà nhập niết-bàn! Mật Tích dùng nhiều lời đau xót và bao nhiêu ngôn từ để bày tỏ lòng luyến mộ Như Lai như thế.

Khi ấy Đế Thích nói:

- Thôi, thôi, cũng đã đủ rồi! Nay ông không thể nhớ lại một vài lời nói của bậc Đại Tiên[8] sao? Đức Phật đã dạy các tì-kheo: “Các hành vô thường, không thể trụ lâu, không nên tin chắc, đó là pháp biến đổi. Tất cả những sự nhóm họp sẽ tan hoại. Như người trên cao ắt rơi xuống đất, có nhóm họp ắt có chia li, có sinh ắt có tử. Tất cả các hành như cây bên bờ sông thẳm, cũng như vẽ trên nước, như bọt nước, như sương trên cành không tồn tại được lâu, như thành Càn-thát-bà tạm hiện ra trước mắt. Mạng người qua mau, bay nhanh hơn tên bắn, vượt nhanh hơn thiên hạ, di chuyển nhanh hơn mặt trăng-mặt trời. Các ông nên phải hiểu rõ vô thường hủy hoại như thế. Nếu Phật sự chưa xong thì Như Lai chưa vào niết-bàn, Phật sự đã xong thì Ngài vào niết-bàn, phó chúc Phật pháp cho trời người. Ngài cũng trao việc quan trọng này cho các đệ tử thanh văn để đi đến chỗ tịch diệt vô úy; Ngài đã diệt các hữu khổ, sẽ không còn thụ sinh”. Vì thế các ông chớ nên quá đau buồn!




[1] Thâp lực 十力: Chỉ mười lực về trí lực của Như Lai . Đó là: 1. Tri giác xứ phi xứ trí lực; 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực; 3. Tri chư thiền giải thoát tam-muội trí lực; 4. Tri chúng sinh tâm tính trí.; 5. Tri chủng chủng giải trí lực; 6. Tri chủng chủng giới trí lực; 7. Tư nhất thiết chí sở đạo trí lực; 8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực; 9. Tri túc mạng vô lậu trí lực; 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.

[2] Chân tế 真濟: Chỉ cho Đức Phật.

[3] Bà-già-bà 婆伽婆: Cg; Bạc-già-phạm, Bà-già-phạm, Bà-già-bạn, Bạc-a-phạm. Là một trong các danh hiệu của chư Phật.

[4] Vua hộ đời 護世之王: Tứ thiên vương.

[5] Trăm phúc 百福: Cg:Bách tự trang nghiêm, Bách phúc đức trang nghiêm. Trăm phúc trang nghiêm. Trong ba mươi hai tướng hảo của Như Lai, mỗi tướng đều do trăm phúc trang nghiêm mà thành.

[6] A-già-đà dược 阿伽陀藥; Hd: Kiện khang, Trường sinh bất tử, Vô bịnh, Phổ khử, Vô giá, Bất tử dược. Vị thuốc hay có giá trị vô cùng, uống vào có thể trừ hết các thứ bịnh tật.

[7] Tướng luân 相輪: Cg; tướng bức luân: bàn chân Phật có hình bánh xe nghìn căm

[8] Đại Tiên: 大仙: Kinh Niết-bàn gọi Đức PhậtĐại Tiên.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23968)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19702)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24000)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21748)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23314)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26578)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29320)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33201)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20209)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25784)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20919)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31326)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38584)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21448)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44266)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29835)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42223)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22144)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45771)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32120)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23962)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24395)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33926)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27686)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32138)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21068)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28857)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21589)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28069)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22079)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21443)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19504)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19475)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19838)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19259)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29197)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28305)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23651)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33194)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31846)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21379)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39633)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21557)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19383)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26405)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24833)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22397)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29136)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22561)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20471)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23525)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21241)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35330)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31347)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant