Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật Nhập Niết Bàn Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ Ai Luyến

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14874)
Kinh Phật Nhập Niết Bàn Mật Tích Kim Cương Lực Sĩ Ai Luyến


KINH PHẬT NHẬP NIẾT BÀN MẬT TÍCH KIM CƯƠNG LỰC SĨ AI LUYẾN


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394

Nguyên tác Hán ngữ [1]
Mất tên người dịch sang Hán. Nay căn cứ theo bản trong Tần lục.

Việt dịch: Lệ Nhã

--- o0o ---
 

Tại rừng Sa-la, thành Câu-thi-na, Thế Tôn nằm xoay đầu về phía bắc mà vào niết-bàn. Lực sĩ Mật Tích Kim Cương thấy Thế Tôn diệt độ, buồn khóc thảm thiết rồi cảm than: “Thế Tôn thành tựu mười lực[1] tối thắng vô thượng, vì sao nay bị vô thường biến hoại, khí lực suy yếu làm tổn hoại như thế? Như Lai bỏ con mà nhập niết-bàn. Từ nay con không có chỗ trở về, không nơi nương tựa, không ai che chở, không ai bảo vệ, lo sợ tai họa bỗng chốc ập đến. Mũi tên độc buồn phiền đã trúng vào tim con!”.

Nói xong, lực sĩ Mật Tích Kim Cương luyến mộ không muốn rời xa Thế Tôn, lửa buồn đau càng cháy mạnh, cắt đứt cả ngũ tạng, nghiền nát tận tâm can, đến nỗi ngất xỉu té xuống đất như núi lở, hồi lâu mới tĩnh, liền đứng dậy rồi ngồi xuống nghẹn ngào buồn khóc, rồi sụt sùi nói: “Lạ thay, lạ thay! Tử ma thật đáng sợ! Thế Tôn đã chứa nhóm vô lượng công đức ba-la-mật mà còn bị tử ma kia hoại diệt!”.

Lực sĩ Mật Tích Kim Cương than khóc xong, lại nói: “Xin Chân Tế[2] vì con mà tỉnh thức. Nay con phúc mỏng, không có chỗ nương tựa, vì sao Thế Tôn bỏ con một mình mà nhập niết-bàn? Từ nay về sau, con mãi mãi xa lìa dung nhan của Như Lai, không nhìn thấy ba nghiệp thân, khẩu, ý vắng lặng của Ngài, lại không thấy Phật Bà-già-bà[3] nhập Phật trụ”.

Khi xưa, Như Lai vào tam-muội Phật trụ, ánh sáng uy đức của Ngài tuyệt diệu gấp bội. Khuôn mặt Ngài tươi sáng hơn hoa sen mới nở, như mặt trời mới mọc toả sáng buổi ban mai. Khuôn mặt của Người như thế mà con lại không còn thấy được. Lại không thể nghe âm thanh như sấm lớn, âm thanh vi diệuNhư Lai phát ra giữa đại chúng. Con cũng không nghe được lời nói chân thật không hai của Như Lai, lời nói xa lìa sai lầm tai họa, lời nói không dua nịnh, lời nói dễ hiểu, lời nóimọi người ưa thích. Pháp có thể trừ diệt các việc ác thế gian, đưa đến thành Cam lộ, không pháp nào hơn Phật pháp. Ôi thay! Đấng Chân Tế mãi mãi nhập niết-bàn, khiến các chúng sinh không có ai cứu giúp, ở giữa cánh đồng sinh tử mà mù mắt, lại lìa xa bậc thầy thì ai chỉ đường đây?

Như Laiđám mây lớn dày để có thể rưới nước cam lộ, nhưng lại bị gió vô thường thổi tan. Tất cả chúng sinh bị ngọn lửa ái dục đốt cháy, mà nay Như Lai nhập niết-bàn thì ai rưới mưa pháp để dập tắt ngọn lửa ái dục kia? Nay Như Lai đã diệt trừ pháp hữu vi, chứng đạo vô thượng, làm Đại y vương cho chúng sinh. Tất cả chúng sinh ở trong thế giới đều bị bệnh phiền não làm đau khổ, nay Như Lai nhập niết-bàn thì ai thương xót dùng chính pháp giáo hóa để chữa trị bệnh kết sử cho các chúng sinh? Như Lai là người biết ân và nhớ ân, từ khi còn trong bào thai cho đến nay, con luôn theo Như Lai như bóng theo hình, hòa thuận, kính vâng theo, chưa từng làm gì sai trái. Vì sao Như Lai không cảm nghĩ đến lòng chí thành của con, lại bỏ con một mình, như người quên ân vậy?

Ôi, kì lạ thay! Ôi, đau khổ thay! Chày kim cương này dùng để bảo vệ ai đây? Nên lập tức ném bỏ chày kim cương này thôi! Từ nay về sau con sẽ hầu hạ ai? Ai sẽ xót thương dạy bảo cho con? Đến bao giờ con mới được nhìn thấy dung nhan của Như Lai? Vua bảo hộ thế gian[4] tuôn cam lộ, nên sai con đến bảo vệ Như Lai, nhưng nay Ngài lại bỏ con nhập niết-bàn? Mạng sống của con tồn tại là nhờ vào Như Lai, nay bỗng chốc Ngài bỏ con, con sẽ nương tựa vào ai để được tồn tại tính mạng này?

Ôi! Như Lai xót thương tất cả chúng sinh nên thường nói pháp vi diệu để giáo hóa, vì sao hôm nay Như Lai nhập niết-bàn mà không nói một lời?

Nhất thiết chủng trí, sở tri của Như Lai vượt trên tất cả trí, nên đối với chúng sinh có duyên, Như Lai luôn nghĩ muốn giáo hóa, giúp họ được lợi ích. Thế thì ngày nay Như Lai phải đi đâu mà nhập niết-bàn, lại không giáo hóa cứu giúp chúng sinh? Các ma, kẻ ác thấy Như Lai nhập niết-bàn đều rất vui mừng. Như Lai là thuyền trưởng trong biển sinh tử, nhưng ngày nay Như Lai mãi mãi bỏ việc cứu vớt chúng sinh. Vô lượng kiếp đến nay, các chúng sinh này trôi theo dòng sinh tử, chỉ có Như Lai mới có thể dùng chính đạo khiến các chúng sinh thoát dòng sinh tử này. Như Lai mãi mãi đoạn trừ phiền não, vì chúng sinh ngu muội nên Ngài hiện ánh sáng lớn. Nhưng nay Như Lai nhập niết-bàn, chúng sinhthế gian càng thêm tăm tối, mãi mãi bị vô minh che lấp.

Lực sĩ Kim Cương Mật Tích xót thương, sầu não, lại nói: “Như Lai đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân trăm phúc[5], thì làm sao hủy diệt, mãi mãi không thể trông thấy?

Buồn thay, bậc phá dẹp ác ma! Buồn thay, bậc chuyển pháp luân! Buồn thay, bậc hay diệt tắt ánh sáng đom đóm ngoại đạo! Buồn thay, bậc hay phá hoại thân hữu lậu! Buồn thay, bậc làm toà thành trí tuệ. Buồn thay, đèn chính pháp bị gió vô thường thổi tắt! Buồn thay, mặt trăng chính pháp bị La-hầu A-tu-la nuốt mất”.

Lực sĩ Mật Tích Kim Cương lại nói: “Đại Tịch Chân Tế, xin nói cho con biết, hôm nay Ngài đi đâu? Đến phương nào? Đến nước nào? Hay Như Lai đến Xá-vệ và thành Vương Xá, đến Ca-tì-la-vệ, hay đến Ba-la-nại? Như Lai ở đâu tại các nước này? Ở rừng nào, là vườn tre Ca-lan-đà, rừng Kì-đà hay rừng Am-bà-la? Như Lai ở nơi đâu trong các rừng này? Là ở núi nào, ở núi Bạch Thiện, núi Tì-hê hay núi Kì-xà-quật? Trong các núi này, Như Lai ở núi nào? Xin Ngài nói cho con biết chính xác nơi đâu?”.

Tám bộ chúng, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già v.v… đều thấy con thường đi theo Phật. Nếu họ có hỏi con Như Lai đi đâu thì con sẽ trả lời họ như thế nào?

Khi xưa, Thế Tôn giáo hóa chúng sinh, nếu thân thể có chút mỏi mệt thì Ngài nghỉ ngơi trong chốc lát. Ngài để tâmviệc làm lợi ích cho chúng sinh, vì sao hôm nay Như Lai bỏ tất cả họ mà nhập niết-bàn, không làm lợi ích nữa?

Xin Như Lai vì chúng con mà thức dậy. Lửa buồn đau đốt cháy trong tâm con, tính mạng sắp không giữ được nữa rồi! Cúi xin Ngài ban cho con một lời, giống như gáo nước lạnh dập tắt ngọn lửa trong lòng con. Nay con bị rắn độc buồn đau cắn, xin Ngài ban cho con thuốc A-già-đà[6] để trừ chất độc đó. Mũi tên độc buồn đau bắn trúng tim con, xin Ngài ban cho con chiếc kiềm lời nói để nhổ nó ra. Như Lai thường nói pháp để tất cả chúng sinh đoạn trừ ái biệt li khổ. Vì sao Như Lai không thương xót, diệt trừ các khổ này cho con?

Như con ngày nay, trong lòng buồn đau, nên tâm trí mờ mịt, không thể suy tìm nghĩa lí để tự chữa lành căn bệnh buồn đau trong tâm và các lời nói dua nịnh. Vì sao Thế Tôn không an ủi con? Tâm cung kính, tùy thuận không biết mõi mệt của con thích nhìn dung nhan của Như Lai mà không chán. Dù té ngã xuống đất thì con cũng nguyện được chiêm ngưỡng dung nhan của Như Lai. Vì sao Như Lai không thương xót con? Ngưu vương diệt kết thường cưỡng ép con, vì sao Thế Tôn không dẫn con nhập niết-bàn mà bỏ con lại một mình? Con mất Như Lai thì có vô lượng vô số nỗi khổ bức bách, không thể chứng ngộ chân lí, vì sao Như Lai bỏ con lại một mình mà nhập niết-bàn?

Lạ thay! Lạ thay! Như Lai ngủ luôn không thức dậy sao? Như Lai đi rồi không trở lại sao? Như đèn tắt thì không sáng trở lại, như lầu báu sụp đổ thì không dựng lại được, như kho báu bị mất thì không thể xuất hiện lại.

Mật Tích Kim Cương lại giơ tay, kêu gào khóc lóc, như sợi dây giữ cây cờ của Đế Thích bị đứt, ngã xuống đất không dựng lên được. Gào khóc một hồi lâu, ruột gan, cổ họng, môi lưỡi của lực sĩ đều bị khô nứt, mê man ngã xuống đất, hồi lâu mới tỉnh lại. Vừa tỉnh lại, vì quyến luyến thân công đức của Như Lai nên ông nắm chặt bàn chân luân tướng[7] của Như Lai mà không buông và nói: “Bàn chân của Như Lai như hoa Ưu-bát-la, như mặt trời mới mọc trong sáng và mát dịu. Bàn chân đứng vững, bàn chân có thiên bức luân tuyệt đẹp và tinh xảo, không ai có thể vẽ được. Chuyển luân thánh vương có tướng này nhưng không rõ ràng. Còn tướng bức luân nơi bàn chân của Như Lai thì hiện đầy đủ và rõ ràng, từng ngón thon dài, đều đặn khít nhau, không có khe hở, móng hồng như đồng nguyên chất. Giữa các ngón tay, ngón chân của Như Lai đều có màng mỏng như bàn chân ngỗng. Bàn chân đầy đặn, không nổi gân mạch, da không nhăn. Bấy giờ vua cõi trời, vua cõi người, các quỉ thần vương và long vương đều đội mũ trời đến đỉnh lễ dưới chân Phật. Như Lai dùng bà chân tướng luân đi khắp thế gian để giáo hóa tất cả chúng sinh có duyên, nhưng nay chân của Như Lai không còn dùng nữa!”.

Khi xưa, tâm con thường vui vẻ, chỉ trong chốc lát Như Lai nhập niết-bàn thì tâm con không còn vui vẻ. Vô thường này rất đáng sợ, có thể phá hoại sắc thân vô lượng công đức không thể nghĩ bàn. Uy lực của Như Lai có thể làm cho người thấy thân tâm được vui vẻ, vô lượng phúc lực có thể giữ gìn thân Như Lai, nhưng lực vô thường thật lớn lao, có thể làm cho thân Như Lai đi vào chỗ chết. Như Lai dù có lực nuôi dưỡng của cha mẹ, lực thiền định, lực trí tuệ, lực thần thông, nhưng không thể tự thoát khỏi lực vô thường.

Ngày xưa, A-nan khuyến thỉnh Thế Tôn trụ lại đời thêm một kiếp, vì sao Như Lai không nhận lời thỉnh cầu đó? Khi xưa trong ba a-tăng-kì-kiếp, Như Lai đã tu trăm nghìn hạnh khổ, đã bỏ tất cả những việc khó bỏ. Trải qua vô lượng kiếp, Như Lai làm thị giả các Đức Phật, tôn thờ cúng dường, cầu Nhất thiết trí để hóa độ chúng sinh. Nhưng mới trải qua một thời gian ngắn, Như Lai độ chưa được bao nhiêu người thì liền nhập niết-bàn. Khi xưa, Như Lai còn làm bồ-tát đã giáo hóa chúng sinh mà không biết mỏi mệt, nhưng nay Như Lai có thể mỏi mệt sao? Chúng sinh ở trong pháp uế như con nghé mới sinh được mười hai tuần, thì sao có thể không cho bú mà bỏ đi? Thế nên, xin Ngài vì con mà thức dậy để ban cho những chúng sinh trong pháp uế được no đủ sữa ngọt.

Đế Thích và vài ức chư thiên đến gạn hỏi, vì sao Như Lai không nói pháp cho họ nghe? Phạm thiên vương, chủ nghìn thế giới chắp tay thỉnh Ngài giảng pháp, nhưng hôm nay vì sao Như Lai không nói đầy đủ pháp yếu để thỏa mãn những ước nguyện của họ? Thiên vương Tì-sa-môn thống lĩnh mấy nghìn vạn dạ-xoa, đề-đầu-lại-trá, càn-thát-bà, tì-lưu-lặc-xoa, cưu-bàn-trà, tì-lưu-bác-xoa và các loại rồng vây quanh Như Lai. Họ vì muốn được uống pháp cam lộ mà đến chỗ này, nhưng vì sao Như Lai không lấy thuốc hay chữa trị các bệnh cho họ? Các chúng ngoại đạo đang phỉ báng Phật pháp, vì sao Như Lai không mau thức dậy để hủy diệt tà luận kia? Chủ cõi Dục phá hoại khắp nơi, vì sao Như Lai không hàng phục họ? Các bậc thanh văn trí tuệ thấp kém, không siêng năng tu tập, nhàm chán đa văn, vì sao Như Lai không mau thức dậy lược nói pháp yếu để cho họ biết chính đạo? Đến như A-nan là người gần gũi Đức Phật, làm thị giả Ngài mà chưa đoạn trừ gốc rễ kết sử, vì sao Như Lai không giảng dạy để A-nan đoạn trừ hết kết sử?

Than ôi, kì lạ thay! Như Lai là người đại phúc đức chắc thật như thế, nhưng bị vô thường hoại diệt trong một sớm. Vô thường này như voi Hộ Tài tàn hại vô số, thân của nó to lớn như núi. Khi xưa Như Lai còn có thể hàng phục voi lớn như thế, vì sao nay lại bị vô thường điều phục đến nỗi phải diệt tận?

Như rồng A-bà-la có thể phá hoại nước Ma-kiệt-đà, nổi sấm sét, kéo mây đen dày, tuôn mưa đá phá hoại cây cối mà Như Lai có thể hàng phục được, nhưng ngày nay ngược lại Như Lai bị vô thường chế phục.

Như Ương-quật-ma-la tàn bạo, hung ác và có sức mạnhNhư Lai còn có thể điều phục được. Mâu-ni Thế Tôn điều phục được những kẻ không thể điều phục, nhưng lại bị vô thường hoại diệt. Như ác quỉ nơi đồng trống giết hại mọi người, khiến cho trong nước trống vắng, Như Lai còn có thể hàng phục khiến chúng thụ trì giới, nhưng nay lại bị sợi dây vô thường hủy diệt.

Như ngài Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp chấp ngã nên bị chìm đắm trong rừng tà kiến không thể ra khỏi. Vậy mà Như Lai vẫn xót thương hiện mười tám loại thần túc biến hóa để hàng phục tà kiến đó, nhưng nay thân Như Lai bị vô thường xô ngã. Tất cả chúng sinh phúc mỏng, biển trí tuệ bị mặt trời vô thường làm khô cạn. Tu-di chính trí bị chày kim cương vô thường đập nát. Cây công đức Phật thường trổ hoa pháp và quả đạo đã bị rìu vô thường chặt đứt. Ánh sáng trí tuệ rộng lớn, danh tiếng vang khắp thế giannăng lực đốt cháy củi hữu sinh, nhưng nay bị dòng nước vô thường dập tắt. Sức mạnh vô thường không có pháp nào ngăn chặn, không thể bị người trí chế ngự. Cho dù sức mạnh của tâm siêng năng dũng mãnh, của thế lực vững mạnh, của tâm nhu hòa vang khắp, của tịch định điều phục các căn cũng không thể thoát khỏi.

Ôi! Vô thường hung bạo như thế! Nó không phân biệt người tốt kẻ xấu, người có đức hay không có đức v.v… tất cả đều bị nó hủy hoại.

 Mật Tích Kim Cương nói lời này xong, mặt đất chấn động, đỉnh núi sụp đổ, sao lớn rơi rụng, lửa cháy bốn phía, mặt trời mặt trăng và các ngôi sao đều mất ánh sáng, tất cả trời, người đều không vui mừng. Mật Tích lại than tiếp: “Hôm nay thân thể con không thể tự đứng dậy, sắp vùi vào lòng đất, trước mắt tối đen, tâm ý hổn loạn, không nhớ được gì, môi lưỡi khô rát, ngôn từ lộn xộn, giọng nói khàn đặc, cái chết đã gần, mạng sống sắp tuyệt. Thế mà Như Lai mãi mãi bỏ con mà nhập niết-bàn! Mật Tích dùng nhiều lời đau xót và bao nhiêu ngôn từ để bày tỏ lòng luyến mộ Như Lai như thế.

Khi ấy Đế Thích nói:

- Thôi, thôi, cũng đã đủ rồi! Nay ông không thể nhớ lại một vài lời nói của bậc Đại Tiên[8] sao? Đức Phật đã dạy các tì-kheo: “Các hành vô thường, không thể trụ lâu, không nên tin chắc, đó là pháp biến đổi. Tất cả những sự nhóm họp sẽ tan hoại. Như người trên cao ắt rơi xuống đất, có nhóm họp ắt có chia li, có sinh ắt có tử. Tất cả các hành như cây bên bờ sông thẳm, cũng như vẽ trên nước, như bọt nước, như sương trên cành không tồn tại được lâu, như thành Càn-thát-bà tạm hiện ra trước mắt. Mạng người qua mau, bay nhanh hơn tên bắn, vượt nhanh hơn thiên hạ, di chuyển nhanh hơn mặt trăng-mặt trời. Các ông nên phải hiểu rõ vô thường hủy hoại như thế. Nếu Phật sự chưa xong thì Như Lai chưa vào niết-bàn, Phật sự đã xong thì Ngài vào niết-bàn, phó chúc Phật pháp cho trời người. Ngài cũng trao việc quan trọng này cho các đệ tử thanh văn để đi đến chỗ tịch diệt vô úy; Ngài đã diệt các hữu khổ, sẽ không còn thụ sinh”. Vì thế các ông chớ nên quá đau buồn!




[1] Thâp lực 十力: Chỉ mười lực về trí lực của Như Lai . Đó là: 1. Tri giác xứ phi xứ trí lực; 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực; 3. Tri chư thiền giải thoát tam-muội trí lực; 4. Tri chúng sinh tâm tính trí.; 5. Tri chủng chủng giải trí lực; 6. Tri chủng chủng giới trí lực; 7. Tư nhất thiết chí sở đạo trí lực; 8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực; 9. Tri túc mạng vô lậu trí lực; 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.

[2] Chân tế 真濟: Chỉ cho Đức Phật.

[3] Bà-già-bà 婆伽婆: Cg; Bạc-già-phạm, Bà-già-phạm, Bà-già-bạn, Bạc-a-phạm. Là một trong các danh hiệu của chư Phật.

[4] Vua hộ đời 護世之王: Tứ thiên vương.

[5] Trăm phúc 百福: Cg:Bách tự trang nghiêm, Bách phúc đức trang nghiêm. Trăm phúc trang nghiêm. Trong ba mươi hai tướng hảo của Như Lai, mỗi tướng đều do trăm phúc trang nghiêm mà thành.

[6] A-già-đà dược 阿伽陀藥; Hd: Kiện khang, Trường sinh bất tử, Vô bịnh, Phổ khử, Vô giá, Bất tử dược. Vị thuốc hay có giá trị vô cùng, uống vào có thể trừ hết các thứ bịnh tật.

[7] Tướng luân 相輪: Cg; tướng bức luân: bàn chân Phật có hình bánh xe nghìn căm

[8] Đại Tiên: 大仙: Kinh Niết-bàn gọi Đức PhậtĐại Tiên.

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27180)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21770)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22233)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23605)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21949)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24757)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18990)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24765)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30977)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23992)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27765)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26516)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21321)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23231)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38138)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18802)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19978)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19050)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23173)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23887)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22816)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22917)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29583)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20646)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18711)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15848)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18863)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19685)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20159)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19956)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18127)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22944)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34168)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16424)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16920)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39255)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26080)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20099)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18859)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24066)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29146)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22904)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30967)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21012)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26857)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26268)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23327)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19820)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24685)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30047)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20227)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20408)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15145)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15840)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23903)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19863)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant