Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật Nói Về Các Đức Phật

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13310)
Kinh Phật Nói Về Các Đức Phật


KINH PHẬT NÓI VỀ CÁC ĐỨC PHẬT


Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch.
Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
--- o0o ---

 

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật an trú tại núi Linh Thứu, trong thành Vương Xá. Khi ấy, sắp đến giờ thụ trai, tôn giả Đại Mục-kiền-liên đắp y, ôm bát định đến thành Vương Xá thì chợt nghĩ: “Hôm nay trước hết ta nên đến cõi trời Sắc Cứu Cánh để hỏi chút nhân duyên, sau đó sẽ trở về thụ trai”.

Thế rồi tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền nhập tam-ma-địa Đẳng dẫn, trong khoảng thời gian ngắn như người lực sĩ co duỗi cánh tay đã đến cõi trời Sắc Cứu Cánh. Khi đến, hai bên dùng nhiều lời hòa nhã thăm hỏi nhau. Sau đó tôn giả hỏi thiên chúng: “Ở những thời kỳ nào có Đức Phật Thế Tôn hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề”? Lúc ấy, một trăm vị thiên chủ ở đây đồng lên tiếng đáp: “Hết một trăm nghìn kiếp mới có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề”.

Nghe xong, tôn giả Đại Mục-kiền-liên tin nhận. Thế rồi, tôn giả lại nhập tam-ma-địa, trong khoảng thời gian ngắn như vị lực sĩ co duỗi cánh tay đã về lại thành Vương Xá, rồi lần lượt đi khất thực giống như ngày thường. Sau khi thụ trai, chải răng, thâu dọn y bát xong, tôn giả liền đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi đến ngồi bên cạnh cung kính chắp tay bạch Đức Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn! Trước giờ thọ trai hôm nay, con đã nhập tam-ma-địa đi đến cõi trời Sắc Cứu Cánh và hỏi thiên chúng ở đó: ‘Ở những thời kỳ nào có Đức Phật Thế Tôn hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề’? Một trăm thiên chủcõi trời Sắc Cứu Cánh đều lên tiếng đáp: ‘Khắp trăm nghìn kiếp đều có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề’. Bạch Đức Thế Tôn! Tuy đã nghe như vậy, nhưng con không rõ việc này thế nào? Cúi xin Đức Thế Tôn giảng nói để con được thấu rõ.

Bấy giờ Đức Phật nói với tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

- Nay ông hãy lắng nghe cho kĩ, Như Lai sẽ giảng nói. Này Đại Mục-kiền-liên! Các thiên chủ cõi trời Sắc Cứu Cánh thấy biết rất hạn hẹp mới cho rằng mãn trăm nghìn kiếp mới có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề. Lời này chẳng đúng, không thể tin nhận. Này Đại Mục-kiền-liên! Ta nhớ thuở xưa, đầu tiên là được gặp sáu mươi ức Đức Phật Như Lai hiện ra nơi đời, nhưng thời gian các Đức Phật ấy trụ ở đời để lợi ích chúng sinh thì lại có dài có ngắn, mỗi vị đều theo duyên mà lần lượt nhập diệt. Tiếp tục lại có tám mươi ức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Diệu Hoa. Ở trước mỗi một vị Phật ấy, Ta đều phát thệ nguyện lớn và giữ Phạm hạnh. Sau các Đức Phật này lại có năm trăm vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Chính Phạm. Tiếp đó lại có tám trăm Đức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Nhiên Đăng.

Kế đó lại có một vạn năm nghìn vị Phật, đồng có tên là Tảm-ma-một, hiện ra nơi đời. Sau đó lại có một nghìn Đức Phật hiện ra nơi đời, tên gọi, dòng họ của mỗi vị đều khác nhau. Đối trước các Đức Phật này, Ta lại phát thệ nguyện tu trì Phạm hạnh. Sau các vị Phật này, lại có sáu nghìn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Tô-bát-la-đa-ba. Sau đó lại có chín vạn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Diệu Ca-diếp. Sau các vị Phật này, lại có một nghìn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Vi Nhật.

Tiếp đó lại có một nghìn Đức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Nhiễm-một-dạ-dã. Tiếp đó lại có tám vạn vi Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Ê-la-phạ-đế. Kế đó lại có bảy vạn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Đế Thích. Kế đó lại có một vị Phật tên là Đức, hiện ra nơi đời. Đối trước vị Phật này, Ta cùng với các đệ tử thanh văn đồng phát thệ nguyện cung kính cúng dường. Cách nhiều năm sau, lại có tám mươi ức na-do-tha bích-chi-phật hiện ra nơi đời.

Này Đại Mục-kiền-liên! Đối trước Ta, vị Bích-chi-phật ấy phát thệ nguyện lớn. Lại có Chuyển luân thánh vương tên là Biến Chiếu, cũng ở trước Ta, lần đầu gặp được bốn mươi vị Phật đồng có tên là Vô Năng Thắng. Này Đại Mục-kiền-liên! Sau khi Phật Đức diệt độ, Ta lại gặp Đức Phật cũng có tên là Vô Năng Thắng. Trong đời vị Phật này, Ta làm Chuyển luân thánh vương tên là Bách Hiệu, cùng với các đệ tử thanh văn của Phật Vô Năng Thắng đồng phát thệ nguyện cung kính cúng dường. Trải qua nhiều năm, sau khi Phật Vô Năng Thắng diệt độ, Ta xây tháp bằng bảy báu để tôn thờ xá-lợi. Ta tu hành như thế, trải qua vô lượng thời gian, đến hôm nay Ta mới chứng được Vô thượng bồ-đề.

Lại nữa, này Đại Mục-kiền-liên! Chư thiêncõi trời Sắc Cứu Cánh ấy thấy biết hạn hẹp. Sau khi Phật Vô Năng Thắng diệt độ, lại có vị Phật hiện ra nơi đời, tên là Trì Thế. Tiếp đó lại có vị Phật hiện ra nơi đời, tên là Trì Địa. Sau lại có Đức Phật tên là Năng Nhân hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Diệu Hiện hiện ra nơi đời. Kế đó lại có Đức Phật tên là Sư Tử hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Tối Thượng Hi Hữu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Đoạn Nhất Thiết Ưu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Nhất Thiết Thắng Thành Tựu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Đắc Thắng hiện ra nơi đời.

Nối tiếp theo thứ tự xuất hiện ở đời là các Đức Phật: Bảo Quang, Ý Xứng, Ô-ba-để-thất-la, Để-thất-la, Viên Quang, Nguyệt Quang, Thiên Quang, A-đề-bộ, A-đề-dã-du, Vô Diệt Thông, Tối Thắng, Để-thất-lỗ-đa-lỗ, Thượng Hoa.

Sau đó lại có: Đức Phật A-lí-sắt-tra, Đức Phật A-đề-bộ, Đức Phật Nhiên Đăng, Đức Phật Hàng Oan, Đức Phật Kim Diệu, Đức Phật Kim Quang, Đức Phật Bảo Nhãn, Đức Phật Liên Hoa Nhãn, Đức Phật Tối Thượng Liên Hoa, Đức Phật Đại Liên Hoa, Đức Phật Liên Hoa, Đức Phật Tì-bà-thi, Đức Phật Thi-khí, Đức Phật Tì-xá-phù, Đức Phật Câu-lưu-tôn, Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Đức Phật Ca-diếp, cho đến hôm nay có Ta là Thích-ca Mâu-ni hiện ra nơi đời.

Này Đại Mục-kiền-liên! Xưa kia Ta phát thệ nguyện là dùng hoa bảy báu để rải cúng dường các Đức Phật này, rồi mới thành Chính đẳng chính giác

Này Đại Mục-kiền-liên! Mỗi một vị Phật kia, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành tựu Chính đẳng chính giác, đều phải trải qua vô số kiếp tu hành. Ta từ khi mới phát tâm cho đến ngày nay được thành Phật là đã trải qua vô lượng kiếp, không thể tính kể. Chư thiên ở cõi trời Sắc Cứu Cánh thấy biết hạn hẹp. Ông chsinh nghi!

Khi nghe Thế Tôn nói kinh này rồi, tôn giả Đại Mục-kiền-liên trừ được mối nghi, vô cùng vui mừng, đỉnh lễ Đức Phật rồi lui ra.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23977)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41234)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19709)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24014)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21750)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23324)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27515)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26581)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29333)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33218)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20212)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25794)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20936)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31339)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38598)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21454)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44287)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29845)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42233)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22148)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45795)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32134)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23978)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24403)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29291)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33938)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27696)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32165)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21084)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28864)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21606)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28102)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22087)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21454)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19525)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19488)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19847)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19272)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29213)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20635)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28313)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23656)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33208)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31860)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21405)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39648)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21575)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19389)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26417)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24842)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21761)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22405)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29153)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22571)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20479)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23541)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21250)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35354)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24558)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31358)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant