Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật Nói Về Các Đức Phật

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13313)
Kinh Phật Nói Về Các Đức Phật


KINH PHẬT NÓI VỀ CÁC ĐỨC PHẬT


Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch.
Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
--- o0o ---

 

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật an trú tại núi Linh Thứu, trong thành Vương Xá. Khi ấy, sắp đến giờ thụ trai, tôn giả Đại Mục-kiền-liên đắp y, ôm bát định đến thành Vương Xá thì chợt nghĩ: “Hôm nay trước hết ta nên đến cõi trời Sắc Cứu Cánh để hỏi chút nhân duyên, sau đó sẽ trở về thụ trai”.

Thế rồi tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền nhập tam-ma-địa Đẳng dẫn, trong khoảng thời gian ngắn như người lực sĩ co duỗi cánh tay đã đến cõi trời Sắc Cứu Cánh. Khi đến, hai bên dùng nhiều lời hòa nhã thăm hỏi nhau. Sau đó tôn giả hỏi thiên chúng: “Ở những thời kỳ nào có Đức Phật Thế Tôn hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề”? Lúc ấy, một trăm vị thiên chủ ở đây đồng lên tiếng đáp: “Hết một trăm nghìn kiếp mới có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề”.

Nghe xong, tôn giả Đại Mục-kiền-liên tin nhận. Thế rồi, tôn giả lại nhập tam-ma-địa, trong khoảng thời gian ngắn như vị lực sĩ co duỗi cánh tay đã về lại thành Vương Xá, rồi lần lượt đi khất thực giống như ngày thường. Sau khi thụ trai, chải răng, thâu dọn y bát xong, tôn giả liền đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi đến ngồi bên cạnh cung kính chắp tay bạch Đức Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn! Trước giờ thọ trai hôm nay, con đã nhập tam-ma-địa đi đến cõi trời Sắc Cứu Cánh và hỏi thiên chúng ở đó: ‘Ở những thời kỳ nào có Đức Phật Thế Tôn hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề’? Một trăm thiên chủcõi trời Sắc Cứu Cánh đều lên tiếng đáp: ‘Khắp trăm nghìn kiếp đều có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề’. Bạch Đức Thế Tôn! Tuy đã nghe như vậy, nhưng con không rõ việc này thế nào? Cúi xin Đức Thế Tôn giảng nói để con được thấu rõ.

Bấy giờ Đức Phật nói với tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

- Nay ông hãy lắng nghe cho kĩ, Như Lai sẽ giảng nói. Này Đại Mục-kiền-liên! Các thiên chủ cõi trời Sắc Cứu Cánh thấy biết rất hạn hẹp mới cho rằng mãn trăm nghìn kiếp mới có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề. Lời này chẳng đúng, không thể tin nhận. Này Đại Mục-kiền-liên! Ta nhớ thuở xưa, đầu tiên là được gặp sáu mươi ức Đức Phật Như Lai hiện ra nơi đời, nhưng thời gian các Đức Phật ấy trụ ở đời để lợi ích chúng sinh thì lại có dài có ngắn, mỗi vị đều theo duyên mà lần lượt nhập diệt. Tiếp tục lại có tám mươi ức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Diệu Hoa. Ở trước mỗi một vị Phật ấy, Ta đều phát thệ nguyện lớn và giữ Phạm hạnh. Sau các Đức Phật này lại có năm trăm vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Chính Phạm. Tiếp đó lại có tám trăm Đức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Nhiên Đăng.

Kế đó lại có một vạn năm nghìn vị Phật, đồng có tên là Tảm-ma-một, hiện ra nơi đời. Sau đó lại có một nghìn Đức Phật hiện ra nơi đời, tên gọi, dòng họ của mỗi vị đều khác nhau. Đối trước các Đức Phật này, Ta lại phát thệ nguyện tu trì Phạm hạnh. Sau các vị Phật này, lại có sáu nghìn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Tô-bát-la-đa-ba. Sau đó lại có chín vạn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Diệu Ca-diếp. Sau các vị Phật này, lại có một nghìn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Vi Nhật.

Tiếp đó lại có một nghìn Đức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Nhiễm-một-dạ-dã. Tiếp đó lại có tám vạn vi Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Ê-la-phạ-đế. Kế đó lại có bảy vạn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Đế Thích. Kế đó lại có một vị Phật tên là Đức, hiện ra nơi đời. Đối trước vị Phật này, Ta cùng với các đệ tử thanh văn đồng phát thệ nguyện cung kính cúng dường. Cách nhiều năm sau, lại có tám mươi ức na-do-tha bích-chi-phật hiện ra nơi đời.

Này Đại Mục-kiền-liên! Đối trước Ta, vị Bích-chi-phật ấy phát thệ nguyện lớn. Lại có Chuyển luân thánh vương tên là Biến Chiếu, cũng ở trước Ta, lần đầu gặp được bốn mươi vị Phật đồng có tên là Vô Năng Thắng. Này Đại Mục-kiền-liên! Sau khi Phật Đức diệt độ, Ta lại gặp Đức Phật cũng có tên là Vô Năng Thắng. Trong đời vị Phật này, Ta làm Chuyển luân thánh vương tên là Bách Hiệu, cùng với các đệ tử thanh văn của Phật Vô Năng Thắng đồng phát thệ nguyện cung kính cúng dường. Trải qua nhiều năm, sau khi Phật Vô Năng Thắng diệt độ, Ta xây tháp bằng bảy báu để tôn thờ xá-lợi. Ta tu hành như thế, trải qua vô lượng thời gian, đến hôm nay Ta mới chứng được Vô thượng bồ-đề.

Lại nữa, này Đại Mục-kiền-liên! Chư thiêncõi trời Sắc Cứu Cánh ấy thấy biết hạn hẹp. Sau khi Phật Vô Năng Thắng diệt độ, lại có vị Phật hiện ra nơi đời, tên là Trì Thế. Tiếp đó lại có vị Phật hiện ra nơi đời, tên là Trì Địa. Sau lại có Đức Phật tên là Năng Nhân hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Diệu Hiện hiện ra nơi đời. Kế đó lại có Đức Phật tên là Sư Tử hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Tối Thượng Hi Hữu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Đoạn Nhất Thiết Ưu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Nhất Thiết Thắng Thành Tựu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Đắc Thắng hiện ra nơi đời.

Nối tiếp theo thứ tự xuất hiện ở đời là các Đức Phật: Bảo Quang, Ý Xứng, Ô-ba-để-thất-la, Để-thất-la, Viên Quang, Nguyệt Quang, Thiên Quang, A-đề-bộ, A-đề-dã-du, Vô Diệt Thông, Tối Thắng, Để-thất-lỗ-đa-lỗ, Thượng Hoa.

Sau đó lại có: Đức Phật A-lí-sắt-tra, Đức Phật A-đề-bộ, Đức Phật Nhiên Đăng, Đức Phật Hàng Oan, Đức Phật Kim Diệu, Đức Phật Kim Quang, Đức Phật Bảo Nhãn, Đức Phật Liên Hoa Nhãn, Đức Phật Tối Thượng Liên Hoa, Đức Phật Đại Liên Hoa, Đức Phật Liên Hoa, Đức Phật Tì-bà-thi, Đức Phật Thi-khí, Đức Phật Tì-xá-phù, Đức Phật Câu-lưu-tôn, Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Đức Phật Ca-diếp, cho đến hôm nay có Ta là Thích-ca Mâu-ni hiện ra nơi đời.

Này Đại Mục-kiền-liên! Xưa kia Ta phát thệ nguyện là dùng hoa bảy báu để rải cúng dường các Đức Phật này, rồi mới thành Chính đẳng chính giác

Này Đại Mục-kiền-liên! Mỗi một vị Phật kia, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành tựu Chính đẳng chính giác, đều phải trải qua vô số kiếp tu hành. Ta từ khi mới phát tâm cho đến ngày nay được thành Phật là đã trải qua vô lượng kiếp, không thể tính kể. Chư thiên ở cõi trời Sắc Cứu Cánh thấy biết hạn hẹp. Ông chsinh nghi!

Khi nghe Thế Tôn nói kinh này rồi, tôn giả Đại Mục-kiền-liên trừ được mối nghi, vô cùng vui mừng, đỉnh lễ Đức Phật rồi lui ra.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27187)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21779)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22243)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23621)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20435)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20059)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21952)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24769)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19012)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24788)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30996)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24006)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27780)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26545)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21357)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23242)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38164)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18809)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19998)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19058)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23187)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23899)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22830)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22939)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29602)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20652)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18729)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15854)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18870)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19698)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20171)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19964)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18133)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22975)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34197)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16438)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16937)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39278)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26104)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20116)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24078)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29161)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22913)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30981)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21023)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26873)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20685)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26274)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23348)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19836)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24698)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30053)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20419)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15162)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23923)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19873)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant