Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển Thứ 09

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 9785)
Quyển Thứ 09



THÀNH THẬT LUẬN 
Ngài HA-LÊ BẠT-MA tạo
Đời Diêu Tần Ngài TAM TẠNG CỰU MA LA THẬP dịch sang Hán Văn
Dịch giả: Tỳ-kheo THÍCH TRÍ-NGHIÊM

 

QUYỂN THỨ 9 

 

PHẨM NGŨ-GIỚI THỨ 109

Đức Phật nói Ưu-bà-tắc có năm giới

Hỏi: Có người nói cụ-thọ thời được giới-luật-nghi. Việc ấy thế nào?

Đáp: Tùy thọ nhiều ít đều được luật-nghi. Nhưng món lấy có năm.

Hỏi: Lìa trói buộc thảy cớ sao chẳng gọi là giới, mà chỉ nói bất-sát thảy ư?

Đáp: Đấy là bà con quyến thuộc vậy.

Hỏi: Cớ sao chẳng nói dứt dâm, mà chỉ nói chẳng tà dâm?

Đáp: Vì kẻ áo trắng còn ở thế-tục khó thường lìa vậy. Lại như tự dâm vợ bất-tất đọa các ác thú, như Tu-Đà-Hoàn thảy cũng còn hành pháp nầy. Vậy nên chẳng nói trọn dứt dâm-dục.

Hỏi: Lìa hai lưỡi thảy, cớ sao chẳng gọi là giới?

Đáp: Đều nầy nhỏ nhiệm, khó giữ gìn được. Lại hai lưỡi thảy là một phần của nói dối, nếu nói “Các lời nói dối” là đã nói chung cả rồi

Hỏi: Uống rượu là thật tội sao?

Đáp: Chẳng phải. Tại vì sao? Vì uống rượu chẳng làm não-hại chúng-sinh, chỉ làm nhân sinh tội. Nếu người uống rượu thời mở cửa bất-thiện. Vậy nên, nếu dạy uống rượu thời đắc tội một phần, vì năng ngăn các thiện-pháp và thiền-định thảy vậy như trồng các thứ cây ăn trái, quyết làm vách rào ngăn. Như vậy bốn pháp kia là thật tội, lìa là thật phước.Vì là giữ-gìn vậy, nên mới kiết-giới rượu nầy.


PHẨM LỤC NGHIỆP THỨ 110

Nghiệp có sáu thứ. Sáu thứ báo nghiệp là: Địa ngục, súc-sinh, ngạ-quỷ, người, trời và bất định.

Hỏi: Thứ này là thế nào?

Đáp: Báo nghiệp địa ngục là như trong phần lâu thán của bộ lục túc a-tì-đàm nói rộng. Lại tội sát sinh thảy đều là địa ngục. Như trong kinh nói: “Kẻ ưa sát-sinh, sinh trong địa ngục; nếu được làm người thời chịu quả-báo chết yểu. Cho đến tà-kiến cũng như vậy”.

Hỏi: Đã biết mười bất-thiện-đạo chịu báo địa ngục và cũng sinh về trong súc sinh, ngạ quỉnhân đạo. Mà ông chỉ nói sinh về trong địa ngục và người. Nay phải nói riêng nghiệp nào chỉ chịu báo địa ngục?

Đáp: Tức tội nghiệp nầy, rất nặng là chịu báo địa ngục, nhỏ nhẹ chịu báo súc sinh thảy. Lại nếu đầy đủ ba thứ tà hành thời là địa ngục, còn các nghiệp khác chẳng đầy đủ thì làm súc sinh thảy. Lại cố ý gây trọng tội thời là địa ngục. Lại người phá giới phá kiến, gây các ác nghiệp thời là địa ngục. Lại thâm tâm làm ác, tâm hoại, hành hoại, người nầy gây ác nghiệp thời là địa ngục. Lại gây nghiệp bất thiện vì giúp bất thiện thời là địa ngục. Lại như đối với Hiền-Thánh gây nghiệp bất thiện thời là địa ngục. Lại khởi nghiệp bất thiện, rồi tu nhóm bất thiện, về sau ngợi khen khoái lạc chẳng muốn bỏ lìa, thời là địa ngục. Lại đem tâm ghét giận để gây tội nghiệp, thời là địa ngục; nếu gvì của cải thời còn chịu báo thừa nữa. Lại đem tâm tà kiến khởi nghiệp bất thiện, thời là địa ngục. Lại kẻ phá giới gây ra tội nghiệp, thời là địa ngục. Lại kẻ không hổ trẽn gây ra tội nghiệp, thời là địa ngục. Lại người ác tính gây ra tội nghiệp, thời là địa ngục, ví như đất ướt mưa ít cũng thành bùn. Lại kẻ thường làm bất thiện gây ra ác nghiệp, thời là địa ngục. Lại nếu không duyên cớ cấp nạn mà gây ác nghiệp thời là địa ngục. Lại nếu người chẳng được chút ít không vô ngã, vì thâm nhiễm đắm vậy, gây ra tội nghiệp, thời là địa ngục. Lại nếu người chẳng tu thân giới tâm huệ gây ra ác nghiệp, thời là địa ngục. Lại nếu người phàm phu gây ra tội nghiệp thời là địa ngục. Tại vì sao? Vì người nầy chẳng biết các pháp; ấm, giới, các món nhập và mười hai nhân duyên thảy; vì chẳng biết nên việc chẳng làm vẫn làm, nên làm mà chẳng làm, lời chẳng nên nói mà vẫn nói, nên nói mà chẳng nói; điều chẳng nên nghĩ vẫn nghĩ nên nghĩ mà chẳng nghĩ; người nầy gây ra tội nghiệp tuy ít nhưng cũng là địa ngục.

Lại nếu chẳng thấy lỗi trong bất-thiện, là người nầy năng khởi tội nghiệp nặng, chịu quả-báo địa ngục. Lại nếu người làm tội mà chẳng nương nơi lành, thời là địa ngục, như người mắc nợ chẳng nương cậy Vua, thời chủ nợ dễ đòi. Lại nếu người nghiệp lành yếu ớt gây ra tội ít cũng là địa ngục, như trong thân người nhiêt-lực kém ít, ăn phải món ăn khó tiêu, thời chẳng tiêu được. Lại nếu người chỉ làm bất thiện, không lộn chút thiện nghiệp, thời là địa ngục, như người làm giặc nặng nhẹ đều bị trói. Lại nếu bỏ lìa tất cả căn lành, như khi voi chiến ra trận chẳng giữ tiếc cái đầu, người ấy gây tội thời là địa ngục. Lại nếu hành tiểu pháp, chịu học hỏi tiểu-sư, người ấy gọi tội-lỗi, thời là địa ngục, như kẻ bần-tiện bị mắc nợ, bị kẻ giàu lôi kéo. Lại nếu người thường thưởng dưỡng bất-thiện, như mắc nợ ngày một đẻ lời, chính như hành nghiệp của những kẻ hàng thịt, thợ săn thảy, thời là địa ngục. Lại nếu che dấu tội-lỗi, thời là địa ngục, như ghẻ chảy mủ. Lại nếu bất thiện nó ở lâu trong lòng người, chẳng năng mau dứt, thời là địa ngục, như bị trị thuốc độc liền năng giết người. Lại như người tự làm bất thiện, cũng đem dạy người khác, vì mở nhiều cửa đau khổ cho chúng-sinh, thời là địa ngục, như các ông quốc-vương và nhiều người bạn tri-thức làm ác-tà-hạnh khiến nhiều người học theo, như bọ Phú-Lan-Na thảy. Lại nếu gây ra nghiệp hại nhiều chúng-sinh, như đốt rừng thảy, lại dạy nhiều người khác, khiến họ sa vào phi-pháp, như thợ săn thảy. Lại nếu người dùng ác nghiệp làm nghề sanh sống, như làm đầu sỏ đảng giặc cướp, thợ thịt, thợ săn thảy. Lại người phá giới rốt-ráo, gây ra tội nghiệp, thời là địa ngục; đến chết chẳng bỏ nên gọi là rốt-ráo, như bài Kệ nói:

Người rốt-ráo phá giới

Như giây mây quấn cây;

Thân người ấy gây ác,

Khiến kẻ oán toại nguyện.

Lại vô sự mà nổi giận dữ, vì tâm giận dữ này mà gây tội nghiệp thời là địa ngục. Nếu hữu sự mà giận thời tội chẳng đến như vậy. Lại vì giận khởi nghiệp là gút nặng, thời là địa ngục. Như trong kinh nói: Giận là tội nặng mà dễ trừ diệt. Lại nếu ác-tâm thành-tính, thời là địa ngục; nếu vì nhân-duyên mà khởi tội nghiệp thời là yếu nhẹ. Lại như người buông lung gây ra ác nghiệp, thời là địa ngục. Nếu được bạn tri-thức ủng hộ thời được sinh lên trời, như chủ hàng thịt tên Tá-Bà khi mạng sắp lâm chung thì được ngài Xá-Lợi-Phất đến tại chỗ, người ấy liền đưa ác nhãn ra xem Xá-Lợi-Phất, mà chẳng hay làm gì được, liền hô lên rằng: Lại trước đây chút. Rồi bèn thở dài và thấy sắc hào quang của Ngài Xá-Lợi-Phất rực rỡ, bền sinh lòng nghĩ rằng: Người này hơn ta, chẳng nên giết vậy. Liền đem tịnh tâm xem lên xem xuống Xá-Lợi-Phất bảy phen như vậy. Nhờ nhân-duyên ấy mà được bảy phen sinh lên trời, bảy phen sinh trong đạo người. Về sau tu chứng được quả Bích-Chi-Phật. Lại như Ương-Quật-Ma-La đã gây nhiều tội nghiệp còn muốn toan giết mẹ, vì nhờ Đức Phật là vị Thiện-Tri-Thức tối-cao, nên liền được giải thoát. Lại như kẻ thí việc dùng hầm lửa, cơm độc, muốn Phật trúng độc và hại Phật. Phật là vị Thiện-Tri-Thức, nên cũng được giải thoát. Những người như vậy tuy có ác nghiệp mà chẳng đọa địa ngục, cho nên mới nói: Nếu người buông lung gây ra ác nghiệp, thời là địa ngục. Lại nếu dứt mất căn lành chẳng còn chữa được, như Điều-Đạt thảy, giống như bệnh nhân tướng chết đã hiện, người ấy gây tội, thời là địa ngục. Lại nếu người chẳng thường làm lành, đến khi mạng sắp chết lòng lành khó sinh, người này tâm ăn-năn nên đọa địa ngục. Lại nếu đến khi chết khởi tâm tà-kiến, người này bởi trước lấy bất-thiện làm nhân, tà-kiến làm duyên, nên đọa địa ngục. Như vậy có nhiều các nghiệp quả-báo địa ngục. Lại có ông luận-sư nói: “Tất cả bất-thiện đều là nhân duyên địa ngục”. Như trong kinh nói: “Phật bảo Tỳ-kheo rằng: Các ngươi đã thấy chúng-sinh thân tà-hành, khẩu tà-hành, ý tà-hành ấy. Phải biết bèn là thấy người trong địa ngục”.

Hỏi: Đã biết báo nghiệp địa ngục. Còn báo nghiệp súc-sinh, thế nào là thế nào?

Đáp: Nếu người thiện chẳng thuần, khởi ra nghiệp bât-thiện, nên đọa súc sinh. Lại kiết-sử hừng-thịnh nên đọa súc-sinh:Như dâm-dục thịnh nên mới sinh về trong loại chim sẻ chim cáp và uyên-ương thảy; giận dữ thịnh nên sinh về trong loại rắn, rít, bò cạp loài có nọc độc thảy; ngụ si thịnh nên sinh về trong loài heo dê thảy; kiêu ngạo nên sinh về trong loài sư tử, beo cọp thảy; múa nhảy thịnh nên sinh về trong loài vượn khỉ thảy; Ganh ghét thảy nên sinh về trong loài chó thảy. Như vậy trong các loại phiền não khác thịnh, nên sinh về trong nhiều loài súc sinh khác. Nếu kẻ có chút phần bố thí, tuy sinh trong súc sinh cũng được hưởng vui, như kim-sí, rồng, voi ngựa thảy. Lại khẩu nghiệp báo nhiều đọa súc sinh, như người bất tri bất tín nghiệp quả-báo, nên mới khởi các thứ khẩu nghiệp, như nói: “Người ấy nhẹ nhảy in như vượn khỉ” thời sinh trong loài vượn khỉ; như nói tham ăn như quạ, nói lời như chó sủa, sợ hải như heo dê, tiếng tăm như lừa hí, đi như lạc đà, tự cao như voi, hung như trâu hoang, dâm như chim sẻ, sợ như chồn mèo, nịnh hót như dã-can, hung tợn như dê đen, nhiều như lông trâu. Sinh khởi ác-khẩu-nghiệp như vậy thảy, nên phải theo nghiệp mà chịu quả-báo. Lại chúng-sinh vì tham vui nên phát nhiều thứ thệ nguyện, như vui dâm-dục thời sinh trong loài chim sẻ thảy; nếu nghe các loài rồng, chim kim-sí thảy có thế lực, nên nghiệp sinh trong các loài ấy. Lại như trong kinh nói: “Nếu chết ở chỗ chật hẹp, nguyện được ở chỗ rộng rãi, thời sinh trong loài chim; nếu chết vì khát, cầu nước nên được sinh trong nước; chết vì đói, tham ăn nên sinh trong chuồng tiêu thảy”. Lại từ ngu si khởi nghiệp nhẹ yếu, vì lành lẫn lộn, nên sinh trong các loài bồ-chét, rận, chí, trùng, kiến thảy. Lại nếu dạy người khác khiến đọa trong tà-pháp thời sinh chỗ không trí, mù từ trong bụng mẹ, mù đến chết làm côn trùng trong thây chết. Lại gây nghiệp lẫn-lộn, nên sinh trong súc sinh. Như trong kinh nói: “Các súc-sinh tùy nhiều thứ tâm, được nhiều thứ hình”. Lại nếu khởi nghiệp ưng ăn cỏ, như người vọng ngữ, tự chú thệ rằng: Nếu ăn món ăn nầy khiến tôi ăn cỏ. Hoặc tôi ăn đất. Như vậy thảy. Lại nếu người ác khẩu mắng lời: Người sao chẳng ăn cỏ, ăn đất. Người ấy tùy lời mà thọ sinh ăn cỏ ăn đất thảy. Lại người tu bất tịnh-thí, thời bị quả báo ăn cỏ thảy. Lại nếu người mắc nợ chẳng trả đọa trong các loài: trâu, dê, cheo, nai, lừa, ngựa thảy để đền nợ xưa. Nghiệp như vậy thảy đọa trong súc-sinh.

Hỏi: Đã biết báo-nghiệp trong súc-sinh, còn nghiệp nào đọa trong loài quỉ đói?

Đáp: Đối với ăn uống sinh tiếc tham, nên bị đọa quỉ đói.

Hỏi: Nếu người có vật của mình chẳng cho ai, cớ sao bị tội.

Đáp; Người tiếc tham nầy, nếu có người theo xin, vì lòng tham tiếc thời sinh giận ghét. Do tội nầy nên sinh trong quỉ đói. Lại người tiếc tham nầy nếu có người theo xin có mà nói không, vì vọng ngữ nên đọa trong quỉ đói. Lại người nầy lâu nay tu nhóm lòng keo rít, thấy kẻ khác được lợi thời sinh lòng ganh ghét, nên đọa quỉ đói. Lại người tiếc tham nầy, thấy kẻ khác tu thí thời ghét giận thí chủ, rồi nói: đứa xin nầy vì quen được vật, nên chắc sẽ lại đến theo ta xin. Lại đã từ lâu xa tu nhóm lòng keo rít, nên đã tự chẳng thí lại ngăn người khác thí nữa. Lại nếu có của vật công cộng như Tăng vật trong chùa và vật của Bà-la-môn trong thiên-miếu! có người độc quyền lẫn tiếc chẳng muốn thí cho người khác nên đọa vào quỉ đói. Lại nếu người vì cướp đoạt phá hoại đồ uống ăn của kẻ khác, nên sinh về chỗ không có vật uống ăn. Lại nếu người không có phước bố-thí, nên tùy chỗ sở sinh bị quả-báo không được gì cả mà còn bị trách mắng là nghiệp ăn mày, nên ở trong ấy chịu khổ. Lại kẻ tham tiếc nầy thấy người đói khát, không lòng thương tưởng, nên sinh về chỗ thường đói khát. Như nhờ lòng từ-bi được sinh lên trời; như vậy bởi lòng giận hờn, nên sinh trong ác-đạo. Lại tham đắm thân thuộc, ưa vui chỗ ở nên đọa vào loài chim ca-lăng-già thảy. Sinh trong quỉ đói, vì tham ái làm nhân-duyên sinh vậy. Như vậy thảy, như trong kinh nghiệp-báo nói rộng nhiều.

Hỏi: Đã biết ba ác báo nghiệp, còn do nghiệp gì nên sinh trong đạo người trời?

Đáp: Nếu bố-thí, trì giới tu thiện nghiệp thảy, bực thượng sinh trời, trung, hạ sinh trong người. Lại kẻ lợi căn thời sinh trong người, vì năng tu pháp người nên gọi là người. Lại nghiệp lành lẫn-lộn nên sinh trong người; nghiệp này có thượng trung hạ, nhất tâm bất nhất tâm, tịnh bất tịnh thảy. Tại sao biết được? Vì người có nhiều phẩm cách sai khác bất đồng vậy. Như trong kinh nói: “Sát sinh thời đoản mạng; trộm cướp thời nghèo túng, tà dâm thời gia thất bất trinh-lương; nói dối thời thường bị bài-báng; đâm thọc thời dòng họ chẳng hòa; ác khẩu thời thường nghe tiếng dữ; lời thêu dệt thời người chẳng chịu tin; tham ganh thời nhiều dâm-dục; giận dữ thời nhiều ác-tính; tà kiến thời nhiều ngu si; kiêu mạn thời sinh làm kẻ bần hèn; tự-cao thời sinh lùn thấp; ganh ghét thời không uy đức; tham lẫn thời nghèo lạnh; giận dữ thời thân xấu xí; não hại người thời nhiều tật bệnh; tạp tâm bố-thí thời thèm mỹ vị bất mỹ, bố-thí thời thèm vị bất mỹ, bố-thí phi-thời thời chẳng được quả vừa ý; nghi hối thời sinh ở biên địa; tu bất-tịnh-thí thời từ việc khổ mới được quả-báo; phi đạo hành dâm thời thân hình bất-nam. Trong nhân đạonghiệp bất thiện lộn lạo như vậy thảy. Thiện nghiệp thời trái lại với trên, như chẳng sát thời mạng được sống lâu thảy. Trong nhân-đạo có nhiều thứ bất-đồng nhau như vậy thảy, cho nên biết là nghiệp báo lẫn-lộn. Lại vì nguyện nên sinh trong nhân đạo. Lại người chẳng ưa buông lung, cũng chẳng nhiều dục, mà ưa thích trí-huệ, phát nguyện muốn được nhân thân, thời sinh trong nhân đạo. Lại nếu người ưa vui cúng dường cha mẹ và các bậc tôn-trưởng, cũng biết cúng dường Sa-Môn, Bà-la-môn thảy vui làm sự nghiệp, cũng ưa vui tu phước đức, thời sinh nhân-đạo; ở trong nhân-đạo, hoặc tu nhân duyên tịnh nghiệp, thời sinh về Bắc Câu-lô Châu. Lại nếu người nhàm ghét ruộng vườn nhà cửa và các ngã-sở sai khác, thời cũng sinh Bắc-Câu-Lô Châu. Lại nếu, người tu chính-hành bạch-n ghiệp chẳng não hại người khác nếu được của để mà bố thí, cũng chẳng tham đắm, tự trì giới hạnh lại chẳng phá các giới quyến thuộc trước sau, thới sinh đến Bắc-Câu-Lô-Châu Làm điều lành nhỏ yếu, thời sinh về Tân-Ngưu-Hóa-Châu. Lại nhỏ mà chẳng bằng đều trên, thời sinh về Đông-Thắng-Thần-Châu. Thiện báo nghiệp: là giới, thí lành thanh-tịnh bực thượng nên sinh về trời. Lại nếu người được một phần trí-huệ, uốn-dẹp được các món gút, nên sinh lên trời. Lại cũng tùy tạp nghiệp nên có sai khác, như đã nói trong phần nhân-đạo. Lại vì nguyện vậy, như nghe nói nhân-duyên hưởng vui trên trời, rồi ra làm nghiệp lành nguyện vãng-sinh, như trong bát-phước sinh xứ đã nói. Nếu tu từ-bi hỷ-xả thời sinh cõi Phạm Thế cho đến cõi Hữu-Đảnh; trong ấy phẩm loại thiền-định có sai khác, nên quả-báo cũng sai khác; như chẳng khéo dứt ngủ-nghĩ điệu-hý thảy, thời yến sáng nơi thân người nầy đục, nếu khéo thời dứt thời yến sáng trong sáng. Lại thượng thiện-nghiệp-báo thời sinh lên trời, được các món sở-dục, nghĩ là liền được. Nếu lìa sắc-tướng thời được vô-sắc-định, sinh vô-sắc xứ. Như vậy thảy gọi là thiện-báo-nghiệp. Bất-định-báo nghiệp: nghiệp hạ-thiện bất-thiện nghiệp nầy chịu quả-báo: hoặc trong địa ngục, ngạ-quỷ, súc sinh, người, trời.

Hỏi: Trong bốn đạo kia khá được thiện-nghiệp-báo, còn địa ngục thì sao?

Đáp: Như trong địa ngục nhỏ tạm nghỉ ngơi, như từ địa ngục lửa tự thoát ra, xa thấy rừng cây lòng mừng chạy đến vào trong rừng ấy, gió mát cây động, dao gươm rơi xuống bấy giờ tạm vui; hoặc thấy sông mặn tưởng là thanh thủy, vội chạy thẳng đến cũng được chút vui. Như vậy thảy là phần thiện nghiệp báo trong địa ngục. Đấy gọi là bất định báo nghiệp.


PHẨM BẢY BẤT THIỆN LUẬT-NGHI THỨ 111

Bảy bất-thiện luật nghi là: giết, trộm, tà-dâm, đâm thọc, ác khẩu, nói dối, lời thêu. Nếu người với bảy việc nầy, hoặc đầy đủ, hoặc chẳng đầy đủ, đều gọi là người bất-thiện luật-nghi.

Hỏi: Những gì thành-tựu bất-thiện luật-nghi?

Đáp: Thành-tựu giết, bất-thiện luật nghi là những kẻ hàng thịt, thợ săn thảy. Thành-tựu trộm là trộm cướp thảy. Thành-tựu tà-dâm là phi đạo hành-dâm và dâm-nữ thảy. Thành-tựu nói dối là những con hát thằng nhảy múa thảy. Thành-tựu đâm thọc là ưa sàm-báng và độc tụng những kinh sách nhí nhảm, cấu hiệp quốc sự thảy. Thành-tựu ác khẩu là quỉ ngục-tốt thảy, cũng dùng ác khẩu tự sinh sống thảy. Thành-tựu lời thêu là hiệp tập những ngôn từ khiến người cười chơi thảy. Có người với Vua, Tể-tướng trị việc Vua, thường thành-tựu bất-thiện luật-nghi này. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì nếu người gây tội nối luôn nhau chẳng dứt, đấy mới gọi thành-tựu bất-thiện luật-nghi, chứ vua thảy chẳng phải vậy.

Hỏi: Làm sao được bất thiện luật nghi nầy?

Đáp: Tùy khi làm ác nghiệp mà được.

Hỏi: Là do giết một chúng-sinh được luật nghi nầy, hay do tất cả chúng-sinh mà được?

Đáp: Do tất cả chúng-sinh mà được. Như người trì giới đối với tất cả chúng-sinh mà được thiện-luật-nghi. Bất-thiện luật-nghi cũng như vậy. Như tùy giết chúng-sinh được hai thư vô tác: một nhiếp về tội giết; hai nhiếp về bất thiện luật nghi.

Hỏi: Bất thiện luật nghi nầy thành tựu thời gian bao lâu?

Đáp: Cho đến khi chưa được xả-tâm thời thường thành-tựu?

Hỏi: Như người do tâm hạ nhuyễn được bất-thiện luật-nghi, như tâm được tham thảy; người ấy thường thành tựu như vậy, hay là lại được nữa ư?

Đáp: Tùy tâm tùy phiền não nhân duyên, lại được bất-thiện luật nghi nầy nữa, vì trong niệm niệm thường được đối với tất cả chúng-sinh được khởi bảy món: bảy món nầy có thượng trung hạ nên lại có hai mươi mốt món. Như vậy trong mỗi niệm thường đối bên tất cả chúng-sinh mà được.

Hỏi: Bất thiện luật nghi này làm thế nào bỏ được?

Đáp: Tùy khi thọ thiện luật nghi là bỏ được, khi chết cũng bỏ. Lại phát thâm tâm từ ngày nay chẳng còn tái phạm bấy giờ cũng bỏ. Có ông Luận sư nói khi nào chuyển căn là bỏ. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tại vì sao? Vì những kẻ bất năng nam cũng được thành tựu. Trong luật Tỳ-Ni cũng nói: Nếu Tỳ-kheo chuyển căn chẳng mất luật nghi. Nên phải biết chẳng vì chuyển căn mà bỏ được.

Hỏi: Trong năm Đạo, chúng-sinh trong Đạo nào thành tựu bất thiện luật nghi?

Đáp: Chỉ Nhân-Đạo thành tựu, chẳng phải các đạo khác. Có người nói sư tử hổ lang thảy thường đem ác nghiệp sinh sống cũng ưng thành tựu.


PHẨM BẢY THIỆN LUẬT-NGHI THỨ 112

Bảy thiện-luật-nghi là chẳng giết cho đến chẳng nói lời thêu dệt.

Hỏi: Đối với phi-chúng-sinh-số có được thiện luât-nghi nầy không?

Đáp: Nhưng cần phải nhân nơi chúng-sinh. Thiện luật-nghi nầy có ba thứ: Giới luật-nghi, thiền luật-nghi, và định luật-nghi?

Hỏi: Vì sao chẳng gọi vô-lậu luật-nghi?

Đáp: Vô-lậu luật-nghi nhiếp trong hai món sau, nên chẳng nói riêng. Có ông Luận-sư nói: “Lại có đoạn luật-nghi” nghĩa là khi lìa cõi Dục được thiện luật-nghi, vì dứt phá giới thảy các điều ác nên gọi là đoạn. Mà thật tất cả luật-nghi đều nhiếp thuộc trong ba món.

Hỏi: Các ngoại-đạo được giới Luật-nghi nầy không?

Đáp: Được vì người nầy cũng nhờ thân tâm lìa các ác vậy, nên vị Giới sư dạy bảo: Người từ ngày nay chẳng nên khởi giết thảy các tội.

Hỏi: Các đạo chúng-sinh khác có được giới luật-nghi nầy không.

Đáp: Trong kinh nói các loại rồng thảy cũng năng thọ giới tu một ngày. Nên biết phải có.

Hỏi: Có người nói có những kẻ bất-năng-nam không được giới luật-nghi nầy. Việc ấy thế nào?

Đáp: Giới luật-nghi nầy do tâm mà được sinh; kẻ bất năng-nam cũng có thiện tâm tại sao chẳng được!

Hỏi: Thế sao chẳng cho làm Tỳ-kheo?

Đáp: Vì người nầy kiết-sử sâu dày khó mà đắc đạo vậy. Lại người nầy chẳng ở trong Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, vậy nên chẳng cho. Lại trong ấy cũng có ngăn các người khác nữa, như lé mắt thảy. Người ấy cũng được thiện-luật-nghi nầy.

Hỏi: Trong Tỳ-kheo ngăn kẻ nghịch tội, kẻ tặc-trú và kẻ làm ô-uế Tỳ-kheo-ni thảy chẳng cho làm Tỳ-kheo. Nhưng các người ấy cũng có thiện-luật-nghi chứ?

Đáp: Những người ấy nếu là thế-gian hoặc được thiện luật-nghi, như chẳng ngăn những người ấy tu bố-thí từ-bi các pháp lành. Như vậy nếu có thế-gian giới luật-nghi, đâu có lỗi gì. Nhưng vì người ấy bị ác nghiệp làm dơ cũng ngăn Thánh Đạo nữa, vậy nên chẳng cho xuất-gia.

Hỏi: Là do chúng-sinh có thể giết thảy mà được thiện luật-nghi hay là với tất cả chúng-sinh mà được?

Đáp: Đều đối với tất cả chúng-sinh mà được. Nếu chẳng phải vậy, thì luật nghigiới hạn, mà có giới hạn là chẳng đầy đủ. Lại luật nghi ấy có thể tăng giảm; thế là đồng với pháp của Ni-Kiền-Tử nghĩa là trong phạm vi một trăm do tuân chẳng nên giết thảy, có các lỗi ấy. Vậy nên luật-nghi không có phân biệt. Nếu có người nói: Ta đối với kẻ nầy lìa giết, mà kẻ nầy chẳng lìa ta, Người ấy chẳng được luật-nghi nầy. Có ông luận-sư nói: Nếu phân biệt bố thí tu từ tâm thảy cũng có phước đức. Giới cũng như vậy, như giữ một giới cũng được phước một giới. Như vậy đối với một chúng-sinh cũng được luật nghi.

Hỏi: Giới luật-nghi nầy có hai thứ: một trọn đời; hai một ngày đêm. Trọn đời: Như giới Tỳ-kheo, Ưu-bà-tắc. Một ngày đêm: Như thọ tám giới một ngày đêm, việc ấy thế nào?

Đáp: Việc ấy vô định: hoặc một ngày một đêm, hoặc chỉ một ngày, hoặc chỉ một đêm; hoặc nửa ngày, hoặc nửa đêm. Tùy lúc khăm năng lãnh thọ được. Xuất gia thời chỉ nên trọn đời. Nếu nói: Tôi chỉ thọ một tháng hay hai tháng, hoặc chỉ một năm thời chẳng gọi được pháp xuất-gia. Năm giới cũng như vậy.

Hỏi: Nếu được thiện-luật-nghi trở lại phá mất luật-nghi chăng?

Đáp: Chẳng mất. Chỉ vì bất thiện pháp làm dơ luật-nghi nầy.

Hỏi: Chỉ đối chúng-sinh hiện-tại giới luật-nghi hay là chúng-sinh ba đời mà được?

Đáp: Đều phải đối chúng-sinh ba đời mà được. Như người cúng dưòng đấng Chí-Tôn quá-khứ cũng có phước-đức. Luật-nghi cũng như vậy. Vậy nên tất cả các Đức Phật đồng một giới-phẩm. Luật-nghi nầy nhiều vô-lượng, như đối với một chúng-sinh được khởi bảy món, như do thiện căn bất tham thảy mà khởi, cũng do tâm thượng-trung-hạ mà khởi, nên có nhiều thứ. Như một người với tất cả chúng-sinh cũng như vậy, trong mỗi niệm thường được, nên có vô-lượng.

Hỏi: Giới luật-nghi, thời gian bao lâu mới được?

Đáp: Có người thọ giới một ngày, là sơ luật-nghi; tức ngày thọ giới Ưu-bà-tắc, là luật-nghi thứ hai; tức ngày xuất-gia làm sa-di, là luật-nghi thứ ba; tức ngày thọ giới Cụ-túc là luật-nghi thứ tư; tức ngày thiền định, là luật-nghi thứ năm; tức ngày được vô-sắc-định, là luật-nghi thứ sáu; tức ngày được vô-lậu, là luật nghi thứ bảy. Tùy chỗ được đạo quả lại được luật-nghi nữa, mà những luật-nghi đã được từ trước chẳng mất. Chỉ thứ nào thắng hơn thì được tên gọi. Như vậy là phước đức càng tăng thêm, vì giới luật nghi nầy đối với tất cả chúng-sinh trong mỗi niệm thường được. Cho nên nói: giới luật-nghi một ngày nầy, bốn của báo lớn chẳng bằng một trong mười sáu phần. Thiền luật-nghi, vô-lậu luật-nghi tùy tâm hành, mà giới luật nghi chẳng tùy tâm hành.

Hỏi: Có người nói khi nhập định có thiền luật-nghi, mà xuất định thời không có. Việc ấy thế nào?

Đáp: Xuất nhập thường có cả. Vì người nầy được thật chẳng gây ác pháptrái nhau với phá giới, thường chẳng làm ác, thiện tâm càng thù thắng, nên phải thường có.

Hỏi: Như thiền trong cõi vô-sắc không pháp phá giới, thời lấy gì trái nhau mà gọi là thiện luật-nghi?

Đáp: Lẽ phải như vậy. Các Tiên, Thánh đều được thiện-luật-nghi. Nếu phải lấy trái nhau với phá giới nên mới có luật nghi ấy, thời chỉ do nên não hại chúng-sinh mới được thiện luật-nghi. Có những lỗi như vây, cho nên chẳng phải lẽ.

PHẨM TÁM GIỚI TRAI THỨ 113

Tám giới trai gọi là Ưu-bà-ta nhà Tần dịch là thiện-túc, là người ấy tâm hành lìa được phá giới một đêm nên gọi là thiện-túc.

Hỏi: Tại sao chỉ nói lìa tám việc ấy ư?

Đáp: Đây là tám cửa. Nhờ tám pháp nầy lìa tất cả ác. Trong ấy bốn pháp là thật-ác; ụống rượu là cửa của ác; ba pháp kia là nhân-duyên buông-lung. Người nầy lìa năm món ác là phước nhân-duyên; lìa ba món kia là đạo nhân-duyên. kẻ thế-gian phần nhiều thiện pháp yếu ớt, chỉ có thể khởi đạo nhân-duyên nhờ tám pháp nầy mà trọn nên pháp ngũ-thừa.

Hỏi: Tám phần trai-giới chỉ nen thọ đầy đủ, hay thọ được phần nào thì thọ?

Đáp: Tùy sức năng giữ. Có người nói pháp nầy chỉ trai giới một ngày đêm. Việc nầy chẳng phải lẽ. Tùy thọ giới nhiều ít, hoặc có thể nửa ngày cho đến một tháng, đâu có lỗi chi? Có người nói cần phải theo kẻ khác mà thọ. Ấy cũng chẳng nhất định. Nếu khi không người truyền thời chỉ tâm niệm miệng nói: Tôi giữ tám giới. Giới nầy có năm món thanh-tịnh: 1- Tu thập-thiện đạo; 2- Dứt các khổ trước sau; 3- Chẳng bị ác tâm não-hại; 4- Cần nghĩ nhớ giữ gìn; 5- Hồi hướng về Niết-Bàn. Năng được trai giới như vậy, thời bốn kho báu lớn chẳng kịp một phần; phước báo Thiên-Vương cũng không kịp nữa. Đế-thích nói kệ, Phật quở rằng nếu người lậu-tâm mới nên nói kệ nầy. Lời kệ:

“Lục-trai tháng thần-túc;

Vâng tu tám giới pháp,

Người nầy được phước đức,

Thời cùng tôi ngang nhau.”

Nếu ngày trai người nào thọ trai giới thời phước như Đế-Thích. Vì thọ trai pháp nầy phải lìa quả-báo Nê-Hoàn, nên những người lậu-tận mới nên nói kệ nầy. Trong phép thọ trai pháp, có bị trói buộc, gông cùm đều được tháo xả; cũng dứt được tất cả nhân-duyên bất-thiện, nên gọi là thanh-tịnh.

Hỏi: Vị Chuyển-Luân Thánh- vương muốn thọ trai-pháp nầy, nhờ ai truyền dạy cho?

Đáp: Đại-Đức Thiên-Thần là kẻ đã từng yết kiến Phật dạy cho khiến thọ.


PHẨM TÁM CHỦNG NGŨ THỨ 114

Tám thứ lời nói: Bốn thứ bất tịnh; bốn thứ tịnh. Bốn thứ bất-tịnh là: Nếu người thấy nói chẳng thấy; chẳng thấy nói thấy; chẳng thấy tự bảo thấy, hỏi thì nói chẳng thấy; thấy tự bảo chẳng thấy, hỏi thì nói thấy. Như vậy là sự trái ngược tâm cũng trái ngược, nên gọi bất-tịnh. Bốn thứ tịnh là: Nếu thấy nói thấy, chẳng thấy nói chẳng thấy; thấy tự bảo chẳng thấy, hỏi thì nói chẳng thấy; chẳng thấy tự bảo thấy, hỏi thì nói thấy. Sự thật tâm cũng thật, nên gọi là tịnh. Nghe hiểu biết cũng như vậy.

Hỏi: Thấy, nghe, hiểu, biết có sai khác gì không?

Đáp: Có ba thứ tin: Thấy gọi tin hiện-tại; nghe gọi tin lời Hiền-Thánh; biết gọi là sánh biết; hiểu gọi là phân-biệt. Là ba thứ tin-huệ. Ba thứ huệ nầy, hoặc đều là thật, hoặc đều là trái ngược. Kẻ thượng-nhân chẳng khởi bất-tịnh, chỉ nói lời tịnh-ngữ. Vậy nên sử dụng của kẻ hạ-nhân thời gọi bất-tịnh; sở-dụng của thượng-nhân mới gọi là tịnh. Có người nói trong nghĩa nầy, các người chính-trí đều gọi là Thượng vì chẳng những kẻ Đắc đạo mà người phàm-phu cũng có tịnh ngữ.


PHẨM CHÍN NGHIỆP THỨ 115

Chín thứ nghiệp: Nghiệp buộc cõi Dục có ba thứ: Tác, vô-tác, chẳng phải tác, chẳng phải vô tác. Nghiệp buộc cõi Sắc cũng vậy. Cõi vô-sắc hai thứ và nghiệp vô-lậu. Nghiệp do thân khẩu gây ra gọi là tác. Bởi tác nên mới nhóm các tội phước thường bám theo, đấy là pháp tâm bất-tương-ưng gọi là vô-tác. Cũng có vô-tác chỉ do tâm sinh. Chẳng phải tác chẳng phải vô tác; tức là ý; ý tức là nghĩ, nghĩ gọi là nghiệp. Vậy nên nếu ý tìm cầu thân sau, đấy gọi là ý-nghiệp, cũng gọi là nghĩ. Nghĩ nhớ thân sau nên gọi là nghiệp.

Hỏi: Nếu như vậy thời không có nghĩ vô-lậu?

Đáp: Nếu cho đấy là nghĩ, thời nghĩ vô-lậu vậy.

Hỏi: Vô-tác nầy tuy từ thân sinh, mà phải có nhiều ít sai khác chứ?

Đáp: Tất cả thân phần đều khởi tác nghiệp, thời nhân đấy nhóm nhiều vô-tác được quả-báo lớn.

Hỏi: Vô-tác nầy ở chỗ nào?

Đáp: Thể của nghiệp đạo quyết định nhóm vô-tác. Tác hoặc có hoặc không các món khác thời phải đợi tâm. Nếu tâm mạnh thời có, tâm yếu thời không. Lại vô-tác này cũng từ nguyện mà sinh, như người phát nguyện: tôi cần phải bố-thí hoặc xây tháp cất chùa. Người ấy quyết định được vô-tác.

Hỏi: Vô-tác này thời gian bao lâu mới được, thời gian bao lâu mới mất?

Đáp: Tùy việc sở-tác tồn tại, như tạo lập vườn tược tháp chùa thảy; thí tùy vật thí chẳng hư, bấy giờ thường còn. Lại tùy tâm chẳng dứt, như người phát tâm: Ta nên thường làm việc này. Hoặc hội đồng hoặc cúng áo. Như vậy thảy việc ở nơi tâm chẳng dứt, bấy giờ thường được. Lại tùy mạng chưa qua đời, như người thọ giới xuất-gia, bấy giờ thường được.

Hỏi: Có người nói chỉ trong cõi Dục do tác sinh vô-tác mà trong cõi Sắc thời không có. Việc ấy thế nào?

Đáp: Hai cõi đều có cả. Tại vì sao? Vì chư Thiên ở cõi Sắc cũng năng thuyết-pháp, kính lễ Phật và Tăng. Những người như vậy thảy, tại sao chẳng do tác-nghiệp sinh vô tác ư? Lại có người nói ẩn mất trong vô-ký, nên không có vô-tác. Việc nầy chẳng phải lẽ. Ẩn mất trong vô-ký là phiền não nặng. Phiền não nầy nhóm họp, thời gọi là sử, nhưng ẩn mất trong vô-ký thời không có vô-tác Tại vì sao? Vì tâm ấy mềm quặt, chẳng năng khởi nhóm, như hoa có thể ướp dầu mè chứ chẳng có cây thảy. Có người nói: “Vượt lên trên cõi phạm thế không có tâm năng khởi tác-nghiệp. Tại vì sao? Vì có giác quán mới năng khởi khẩu nghiệp, kia không có giác-quán, chỉ dùng tâm Phạm-thế năng khởi khẩu-nghiệp”. Việc nầy chẳng phải lẽ. Chúng-sinh tùy nghiệp thọ thân, nếu được sinh lên bực trên, thời chẳng được dùng báo trong cõi Phạm-thế. Cho nên biết dùng tâm từ cõi mình năng khởi khẩu-nghiệp. Lại người nói kia không giác-quán, ra sau sẽ nói có.

Hỏi: Thánh-nhân dứt gút chưa hết năng khởi tác-nghiệp không?

Đáp: Thánh-nhân chẳng hay khởi nghiệp thật-tội.

Hỏi: Tiếng tăm chúng-sinh như chó thảy có phải khẩu-nghiệp chăng?

Đáp: Tùy không ngôn-từ phân-biệt, nhưng vì do tâm khởi nên cũng gọi là nghiệp. Lại như hiện-tướng: hoặc hiệu-lệnh, hoặc tiếng đàn sáo thảy, đều gọi khẩu nghiệp. Nghiệp thân-khẩu nầy cần có ý-thức mới năng khởi, chứ chẳng phải các thức khác. Vậy nên người có tự thấy thân nghiệp, tự nghe khẩu-nghiệp, vì ý-thức sinh khởi nghiệp nối nhau chẳng dứt nên tự thấy nghe.


MƯỜI BẤT THIỆN ĐẠO THỨ 116

Trong kinh Phật nói mười bất-thiện nghiệp-đạo là sát-sinh thảy. Năm ấm hòa-hợp gọi là chúng-sinh, vì dứt mạng sống nầy nên gọi là sát-sinh.

Hỏi: Nếu năm ấm ấy thường diệt từng mỗi niệm lấy gì mà sát?

Đáp: Năm ấm tuy mỗi niệm diệt mà trở lại nối nhau sinh, vì dứt nối nhau nên gọi là sát-sinh. Lại vì người ấy có cố tâm sát, nên bị tội-sát.

Hỏi: Vì dứt năm ấm hiện-tại mà gọi là sát hay sao?

Đáp; Trong năm ấm nối nhau có tên chúng-sinh, vì phá-hoại nối nhau nầy nên mới gọi sát-sinh, chứ chẳng bởi trong mỗi niệm diệt có tên chúng-sinh.

Hỏi: Có người nương quan-cựu-pháp sát hại chúng-sinh; hoặc vì sức mạnh ép bức sát chúng-sinh, tự bảo không có tội. Việc ấy thế nào?

Đáp: Lẽ cũng bị tội. Tại vì sao? Vì người ấy đầy đủ nhân-duyên sát tội. Do bốn duyên bị tội sát-sinh: môt có chúng-sinh; hai biết là chúng-sinh; ba có tâm muốn sát; bốn dứt mạng sống nó. Người ấy đủ bốn nhân nầy làm sao mà không tội?

GỌI LÀ TRỘM: Nếu vật ấy thật thuộc quyền người nầy mà cướp trộm đấy gọi là trộm. Trong ấy cũng có bốn thứ nhân duyên: một vật nầy thật thuộc người khác; hai biết là thuộc người khác; ba có tâm cướp trộm; bốn cướp trộm lấy xong.

Hỏi: Có người nói của vật tàng kín là thuộc của vua, nếu lấy vật ấy thời đắc tội với vua. Việc ấy thế nào?

Đáp: Bất luận vật gì trong đất, chỉ vật trên mặt đất thuộc vua. Tại vì sao? Vì như ông Cấp-Cô-Đốc thảy là Thánh-nhân mà cũng lấy vật ấy, nên biết không tội. Lại như tự nhiên được của chẳng gọi trộm cướp.

Hỏi: Nếu tất cả muôn vật đều là cọng-nghiệp mà sinh, thời trộm cướp tại sao bị tội?

Đáp: Tuy do cọng-nghiệp nhân mà sinh, nhưng nhân có mạnh yếu, như người nghiệp-nhân có sức mạnh. Lại siêng năng gia công thời vật ấy mới thuộc quyền sở hữu.

Hỏi: Nếu người cướp lấy ruộng nhà của vật thảy của tháp, chùa, chúng Tăng thời đắc tội với ai?

Đáp: Tuy Phật và Tăng đối với vật không tâm ngã-sở, nhưng cũng do đó mà đắc tội, vì vật nầy nhất định thuộc Phật-Tăng. Hơn nữa với trong kinh ấy sinh ác tâm hoặc cướp hoặc trộm, vậy gọi là đắc tội.

GỌI LÀ TÀ DÂM: Nếu hành-dâm với kẻ chẳng phải vợ thời gọi là tà-dâm. Lại tuy là vợ mà hành-dâm chỗ phi đạo cũng gọi là tà-dâm. Lại tất cả nữ-nhân đều có người giám-hộ, như cha mẹ, anh em, người chồng, dâu con thảy. Nữ nhân xuất gia được vua thảy làm giám hộ?

Hỏi: Hành dâm với Đĩ là kẻ chẳng phải vợ, thế nào có phải tà-dâm không?

Đáp: Là vợ thời gian ngắn. Như trong luật có nói: Đấy là vợ thiểu thời, cho đến lấy một sợi tóc ngăn vậy.

Hỏi: Nếu nữ-nhân không chủ, tự đến cầu xin làm vợ, việc ấy thế nào?

Đáp: Nếu thật không chủ mà đối trước công chúng đúng như pháp đến cầu ấy, thời chẳng gọi tà-dâm.

Hỏi: Nếu người xuất-gia lấy vợ miễn tà-dâm chăng?

Đáp: Không miễn được. Tại vì sao? Vì không có pháp nầy vậy. Pháp người xuất-gia là thường lìa dâm-dục. Nhưng tội nhẹ hơn phạm vợ người khác.

VỌNG NGỮ: Nếu thân khẩu ý gạt chúng-sinh khác, khiến nói hiểu hư dối, gọi là vọng-ngữ. Phật vì trọng tội nên nói trong chúng định hỏi là vọng-ngữ. Cho dến khi một người hỏi cũng gọi vọng-ngữ, đâu cần nhiều người ư? Lại tùy chỗ muốn gạt người thời đắc tội với người ấy. Nếu người bảo với người khác rằng tôi đã nói với kẻ nào đó việc như vậy. Việc tuy chẳng thật mà chẳng gọi là vọng-ngữ. Lại vọng-ngữ tùy ý tưởng. Nếu thấy tưởng không thấy, hỏi thời nói chẳng thấy, là không bị tội vọng-ngữ. Như trong luật Tỳ-Ni đã nói.

Hỏi: Nếu người, việc điên-đảo chẳng thấy nói thấy, tại sao chẳng phải vọng-ngữ?

Đáp: Tất cả tội phước đều do tâm sinh; người ấy với trong việc chẳng thấy mà sinh tưởng thấy, vậy nên không tộii. Như với trong thật chúng-sinh tưởng không chúng-sinh, trong phi-chúng-sinh tưởng chúng-sinh, thời chẳng bị tội sát.

Hỏi: Như thật có chúng-sinh, sinh tưởng chúng-sinh là bị tội-sát. Như vậy nếu thấy sinh trưởng thấy, thời lẽ chẳng tội; chẳng phải chẳng thấy tưởng thấy mà được không tội?

Đáp: Sinh tội là do tâm, do chúng-sinh. Vậy nên tuy có chúng-sinh mà tưởng không chúng-sinh thời chẳng bị tội, vì vô tâm vậy. Nếu không chúng-sinh mà tưởng có chúng-sinh, vì chúng-sinh không nên cũng chẳng bị tội. Nếu có chúng-sinh tưởng có chúng-sinh, vì đã đủ nhân-duyên nên mới bị tội sát-sinh. Nếu với trong việc thấy sinh tưởng chẳng thấy, hỏi thời chẳng thấy; người ấy nghĩ tưởng điên-đảo, nên chẳng dối chúng-sinh, tuy là việc điên-đảo, nhưng cũng gọi là thật. Nếu với trong việc chẳng thấy mà sinh tưởng thấy, hỏi thời nói chẳng thấy, người ấy tưởng điên-đảo dối gạt chúng-sinh; việc tuy chẳng điên đảo, nhưng cũng gọi vọng ngữ.

ĐÂM-THỌC: Nếu người muốn chia lìa kẻ khác nên khởi khẩu nghiệp, gọi là đâm thọc. Nếu không cố tâm chia lìa, mà người kia nghe tự hoại, thời chẳng đắc tội. Nếu đem thiện-tâm giáo-hóa khiến lìa người ác, tuy là chia lìa, nhưng cũng chẳng đắc tội. Nếu chẳng bởi kiết-sử trược tâm tuy là miệng nói cũng chẳng đắc tội.

ÁC-KHẨU: Nếu người đem khổ ngôn mà không có lợi-ích chỉ muốn não hại kẻ khác, gọi là ác khẩu. Nếu vì long lân-mẫn muốn làm lợi ích, nên phải khổ ngôn, thời không có tội. Như vô sự mà gia hại thời có tội. Y theo phương-pháp châm cứu chữa bênh, tuy khổ mà chẳng phải tội. Khổ ngôn cũng vậy, chư Phật, Hiền-Thánh cũng vì việc ấy, nên như nói: “Ngươi là người ngu si!” thảy. Lại nếu không kiết sử trược tâm, tuy là khổ ngôn mà chẳng gọi là tội, như người ly dục thảy. Nếu vì thiện tâm, với trong khổ ngôn mà khởi phiền nãolập tức đắc tội.

LỜI THÊU: Như chẳng phải thật ngữ nghĩa bất chính nên gọi là lời thêu. Lại tuy là thật ngữphi thời, nên cũng gọi lời thêu. Lại tuy thật và phải thời, vì tùy thuận suy não không lợi ích, nên cũng gọi lời thêu. Lại tuy lời thật và phải thời cũng có lợi ích nhưng vì nói nghĩa lý không đầu đuôi, chẳng thứ tự, nên cũng gọi lời thêu. Lại vì si thảy các phiền-não tán tâm mà nói, gọi là lời thêu. Thân ý bất chính cũng gọi nghiệp nói thêu dệt, chỉ đa phần do khẩu tác, cũng tùy thế tục mà nói, nên gọi là lời thêu, còn ba khẩu nghiệp kia lời thêu đều lẫn lộn không thể rời nhau: Như vọng ngữ mà chẳng khổ ngôn, cũng chẳng chia lìa thời có hai thứ: Lời dối và lời thêu; nếu là lời dối cũng muốn chia lìa, mà chẳng khổ ngôn thời có ba thứ: Lời dối đâm thọc và lời thêu; nếu lời dối lời khổ cũng muốn chia lìa, thời đủ bốn thứ. Nếu không lời dối, lời khổ cũng chẳng chia lìa, nhưng lời phi thời, lời vô ích, lời vô nghĩa, thời chỉ là lời thêu. Lời thêu nầy nhỏ nhiệm khó mà lìa được, chỉ có chư Phật mới có thể dứt tận gốc. Vậy nên chỉ có chư Phật độc xưng Thế-Tôn, vì nói là tin chịu, kỳ dư không ai sánh kịp được.

Hỏi: Đã nói bảy thứ nghiệp-đạo, cần gì lại nói ba ý nghiệp?

Đáp: Có người bảo: tội phước chỉ cần do thân khẩu, chứ chẳng phải do tâm. Vậy nên mới nói tâm mà cũng là nghiệp đạo. Lại ba thứ nầy ý-nghiệp có ức mạnh, nên thân khẩu mới khởi ác nghiệp. Ba thứ này tuy đều quan trọng, nhưng vì ý-nghiệp nhỏ nhiệm nên phải nói ở sau. Mặc dù tất cả phiền não năng khởi ác nghiệp, mà chỉ ba thứ này làm não-hại chúng-sinh nhiều hơn, nên mới gọi là bất-thiện nghiệp-đạo. Nếu lòng tham mức trung, hạ chẳng gọi nghiệp-đạo. Lòng tham nầy tăng thượng sâu đắm của kẻ khác khi có phương-tiện muốn não hại là năng khởi nghiệp thân khẩu, cho nên tham ganh là nghiệp đạo. Giận si cũng vậy. Lại nếu nói si tức đã nói tất cả phiền não. Trong đây chỉ vì năng khởi nghiệp thân khẩu xâm hại chúng-sinh. Nên nói ba thứ.

Hỏi: Tại sao gọi si là tà-kiến?

Đáp: Si có nhiều thứ sai khác. Tại vì sao? Vì chẳng phải tất cả si đều là bất thiện. Nếu si càng thêm lên trở thành tà-kiến, thời gọi bất-thiện nghiệp-đạo. Tất cả bất-thiện đều do ba cửa này: Như người vì tài lợi nên khởi nghiệp bất-thiện. Như vì kim tiền tà sát chúng-sinh. Hoặc vì sân nên sát như sát oán-tặc. Hoặc có chẳng vì tại lợi, cũng chẳng giận dữ, chỉ vì sức si chẳng biết phải quấy nên giết chúng-sinh.

Hỏi: Trong kinh nói ác đạo nhân duyên có bốn thứ hành: Do tham, do giận, do khủng-bố và do si nên đọa các ác đạo. Nay trong đây tại sao chẳng nói do khủng-bố khởi ác nghiệp?

Đáp: Bố là nhiếp vào trong si. Nếu nói do bố tức là do si. Tại vì sao? Vì kẻ trí cho đến gặp phải nhân-duyên mất mạng vẫn chẳng khởi ác nghiệp. Lại việc nầy trước đã đáp. Nghĩa là phiền não tăng-trưởng năng khởi nghiệp thân khẩu, bấy giờ gọi bất-thiện-đạo. Vì ba thứ nầy phần nhiều khởi bất-thiện vậy.

Hỏi; Tại sao gọi là nghiệp đạo?

Đáp: ý tức là nghiệp; đi ở trong ấy nên gọi là nghiệp-đạo. Trước đi trong ba món sau; sau đi trong bảy món trước. Ba nghiệp là đạo, chứ chẳng phải nghiệp; bảy nghiệp cũng nghiệp cũng đạo.

Hỏi: Cũng có roi, gậy và uống rượu thảy các nghiệp bất-thiện, tại sao chỉ nói mười mấy thứ ấy?

Đáp: Mười tội nầy nặng nên riêng nói. Lại roi, gậy thảy đều là phụ thuộc trước sau. Uống rượu chẳng phải thật tội cũng chẳng làm hại người khác, dù cho có hại người khác đi nữa cũng chẳng phải chỉ rượu vậy.

Hỏi: Bất thiện-đạo nầy là ở chỗ nào?

Đáp: Đều ở trong năm đạo. Chỉ Bắc Câu-Lô-Châu không tà dâm; do ba việc khởi bởi tham dục mà thành, kỳ dư ba việc khởi cũng bởi ba việc mà thành.

Hỏi: Thánh-nhân năng khởi bất thiện nghiệp không?

Đáp: Cũng khởi ý bất thiện nghiệp, chứ chẳng khởi thân khẩu. Lại trong ý-nghiệp cũng chỉ khởi sân-tâm chứ chẳng khởi sát tâm.

Hỏi: Trong kinh nói bực học-nhân rủa người rằng: Tiêu-diệt, khiến người dứt giống. Việc ấy thế nào?

Đáp: Cũng có kinh nói A-La-Hán rủa. Là người lậu tận, dứt gốc phiền não hay chẳng móng tâm, huống là rủa ư. Nói học-nhân rủa cũng như vậy. Lại Thánh-nhân đối với nghiệp bất-thiện được bất tác luật nghi thì làm sao còn tác bất thiện? Lại vị Thánh nhân chẳng đọa ác đạo, nếu năng khởi bất thiện, thời lẽ phải đọa.

Hỏi: Nếu các Thánh-nhân đời nay chẳng gây nghiệp bất-thiện, nên đọa ác đạo, chứ trong đời quá khứ có nghiệp bất-thiện tại sao chẳng đọa?

Đáp: Tâm Thánh nhân này Trung-thật khi trí sinh, các ác đạo nghiệp đều bị yếu ớt, in như giống hư không còn mọc được. Lại ba độc có hai thứ: Thứ năng gây ác đạo, thứ chẳng năng gây, Thánh nhân đã dứt trọn. Vì nghiệp phiền não, nên được thọ thân; Thánh-nhân tuy có các nghiệp phiền não mà chẳng đầy đủ, vậy nên chẳng đọa. Lại người này nương đại thế lực, chỗ gọi Tam-bảo năng tiêu trừ đại ác, như người nương vua, chủ nợ chẳng dám làm rầy. Lại người này trí huệ sáng bén năng tiêu ác nghiệp, như nhiệt lực trong người thịnh nên năng tiêu món ăn khó tiêu. Lại người này có nhiều phương tiện: hoặc niệm chư Phật, hoặc niệm từ-bi các nghiệp lành, nên được thoát khỏi các ác, như kẻ gian tặc nhiều phương kế, nương các chỗ hiểm nạn thời không thể làm gì được. Lại vi Thánh-nhân này đã được đạo giải thoát, như con ngưu-vương đi, như chim nương hư không. Lại vì suốt đêm tu tập các pháp lành, nên chăng đọa ác đạo. Như trong kinh nói: “Nếu người thường tu thân-giới tâm huệ, thời quả báo địa ngục đời hiện có thể chịu nhẹ”. Lại như kệ nói:

Tu lòng từ bi,

Không lường không ngại;

Có các nghiệp nặng,

Chỗ chẳng hay kịp.

Lại Thánh-nhân nầy tâm bất thiện-nghiệp chẳng năng bền chắc, như một giọt nước rơi trên tấm sắt nóng. Lại Thánh-nhân nầy nghiệp lành sâu xa, như rễ cây hoàn-thù-la. Lại Thánh-nhân nầy nhiều thiện ít ác. Ác ít mà ở trong thiện nhiều thời không có sức mạnh, như gieo xuống sông Hằng một lượng muối không thể làm hoại vị nước được. Lại Thánh-nhân nầy giàu của tín thảy, như người nghèo cùng vì một đồng tiền mà bị tội; kẻ giàu sang tuy được trăm ngàn cũng chẳng đắc tội. Lại vì vào Thánh-đạo nên được cao sang, như kẻ sang trọng tuy bị tội mà chẳng vào lao ngục. Lại như cọp beo chó dê lợn lớn giành nhau, con lớn đắc thắng. Lại Thánh-nhân nầy tâm ký-túc ngủ nơi Thánh-đạo, các tội ác đạo chẳng thể hại được, như vua ngủ nhà trống, kẻ oán không thể vào được. Lại Thánh-nhân này đi chỗ tự đáng đi, nên tội nghiệp ác đạo chẳng làm gì được, như cái ví dụ chim bồ-cắt. Lại Thánh-nhân tâm buộc tứ-niệm-xứ, nên nghiệp các ác đạo chẳng làm gì được, như bình tròn đã để vào đai. Lại đủ hai món kiết mới vào ác đạo theo nghiệp chịu báo; Thánh-nhân dứt được một món, nên chẳng đọa ác đạo. Lại người nầy thường hưởng quả-báo nghiệp lành, nên các nghiệp ác-đạo chẳng làm gì được. Lại như trong phẩm Lục-nghiệp trước đã nói nghiệp tướng địa ngục. Thánh-nhân không nhân-duyên chẳng đọa ác đạo.


PHẨM MƯỜI THIỆN ĐẠO THỨ 117

Mười thiện-nghiệp-đạo: Chỗ gọi là lìa sát cho đến chính-kiến là mười điều nhiếp thuộc vào trong giới-luật-nghi. Một thời được nhiếp về thiên vô-sắc luật-nghi; cũng một thời được lìa gọi là thiện-nghiệp-đạo tức là vô-sắc.

Hỏi: Các phước lễ kính bố-thí thảy là thiện-nghiệp-đạo, tại sao chỉ nói lìa là nghiệp đạo?

Đáp: Vì lìa là hơn hết. Mười món nghiệp nầy đối với thí thảy là hơn. Tại vì sao? Vì bố-thí thảy được phước-báo chẳng kịp bằng trì giới. Như đến khi con người chỉ còn mười tuổi, nhờ nhân-duyên lìa giết mà thọ mạng được tăng lên. Lại mười nghiệp bất-thiện là thật-tội, nên lìa được gọi là thật phước. Lại ba món thiện-nghiệp sau là góc các thiện, vậy nên các thiện bố-thí thảy đều nhiếp trong nghiệp-đạo. Lại nghiệp đạo nầy có lìa roi gậy thảy, vì trước sau hiệp nói, nên tất cả các thiện đều nhiếp vào trong ấy.


PHẨM QUÁ-HOẠN THỨ 118

Hỏi: Nghiệp chẳng lành có những tội lỗi gì?

Đáp: Do nghiệp chẳng lầnh nên bị chịu các khổ địa ngục. Như trong kinh nói: “Vì nhân-duyên sát-sinh nên đọa địa ngục; nếu được sinh trong nhân đạo, thì chịu quả báo chết yểu.” Như vậy cho đến tà-kiến. Lại vì nhân-duyên nghiệp chẳng lành, nên chịu khổ não lâu như địa ngục A-tì trải vô-lượng năm mà mạng sống lâu chẳng cùng tận. Lại chúng-sinh có tất cả bao nhiêu điều ác bại hoại suy não, đều bởi nghiệp chẳng lành. Lại chưa từng thấy chẳng lành mà có lợi ích lớn, như những kẻ hàng thịt, thợ săn thảy, trọn chẳng nhờ nghiệp ấy mà được sang trọng. Hoặc trong ý ngươi bảo: Vì nhân-duyên phá giặc mà được giàu sang. Việc nầy trong phẩm tam-nghiệp trước đã đáp. Lại kẻ làm việc chẳng lành, bị chịu quở trách và chịu phần khổ não. Lại khiến kẻ khác phải ra làm việc ác, gọi là hung bạo. Vậy nên cần phải lìa nghiệp chẳng lành nầy. Lại trong kinh nói giết có năm lỗi: “Người chẳng tin dùng; bị mang tiếng ác; xa lành gần ác; khi chết sinh hối; sau đọa ác đạo”. Lại nhân duyên sát sinh, vui ít khổ nhiều. Lại hạnh nghiệp chẳng lành ngầm nhiễm làm dơ tâm con người, chứa nhóm lâu đời đời khó mà chữa được. Lại kẻ làm điều chẳng lành, từ tối vào tối trôi lần vào tam đồ hẳn không ngày ra khỏi. Lại kẻ làm chẳng lành, uổng chịu một đời người, như vào núi Tuyết tìm thuốc mà lấy phải cỏ độc, ấy là rất ngu?

Như vậy nhờ mười đạo lành nầy mới được làm thân người nhưng chẳng làm lành đã là một phúc lớn, huống chi khởi gây ác nghiệp! Lại kẻ làm chẳng lành tuy tự yên thân mà thật chẳng tự yên được; tuy tự hộ thân mà thật chẳng phải tự hộ. Vì khởi nghiệp nhân-duyên tự não-hại lấy vậy. Lại người nầy yêu-đãi thân in như kẻ oán-tặc tự làm khổ vậy. Lại nếu làm chẳng lành là mình gây giặc cho bản thân, huống chi kẻ khác ư? Lại làm nghiệp chẳng lành, nay tuy chẳng hiện quả-báo mà đã mắc phải. Vậy nên tuy ít cũng chẳng khá chẳng tin; như chất độc tuy ít có thể hại người; như nợ tuy ít lần lần sinh lãi tức. Lại làm ác với người ta, họ thường chẳng quên. Vậy nên gây nghiệp tuy lâu xa mà chẳng khá chẳng tin. Lại kẻ làm chẳng lành gọi là mất vui, nghĩa là vì làm chẳng lành nên mất quả vụi người trời. Chẳng vui điều đáng vui là kẻ ngu lắm vậy. Lại kẻ làm chẳng lành là bị khổ dữ dội, đáng thương: đời hiện tâm bị ăn-năn các khổ; đời sau chịu khổ ác đạo. Lại quả-báo của nghiệp chẳn lành dù bay lên hư không, hay lặn dưới nước cũng không chỗ trốn thoát được, như chiếc gươm vàng bay theo Phật. Lại tất cả nghiệp chẳng lành đều do si mà sinh khởi, vậy nên có kẻ trí-giả họ chẳng nên tùy theo. Lại trong kinh nói: “Buông lung như kẻ oán, năng hại các pháp lành, nên chẳng đáng theo”. Lại nghiệp chẳng lành, chư Phật, Bồ-tát các vị ứng-chân Thánh-Hiền, ngũ-thông Thần-Tiên và những kẻ minh đạt tội phước không ai chẳng quở mắng, vậy nên chẳng nên gây. Lại hiện thấy kẻ ác tâm hừng-thịnh thời ý-chí mờ tối rối loạn buồn bực đau khổ, nên sắc mặt biến khác, người chẳng muốn thấy, huống là khởi nghiệp thân khẩu. Vì các duyên do nầy, nên biết nghiệp chẳng lành có tội lỗi nhiều vô-lượng.

Thành Thật luận hết quyển 9.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11644)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11970)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11358)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12074)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12570)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10774)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17994)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11736)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9959)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10181)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15355)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11253)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12118)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15379)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12011)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12421)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11194)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12096)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10626)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12564)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13178)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12698)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16586)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19678)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13116)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13536)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11962)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11645)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14529)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12625)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15670)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13633)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11176)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9087)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12188)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10321)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12204)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15325)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16616)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14281)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19714)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14160)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24620)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10700)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant