Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-11 Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8142)
16-11 Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999


XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Khẩn Na La Vương Thọ Ký
Thứ Mười Một


 Bấy giờ có tám ức Khẩn Na La chúng, Đại Thọ Khẩn Na La vương làm thượng thủ , thấy chư A La Hán, Ca Lâu La, Long Nữ, Long Vương, Cưu Bàn Trà, Càn Thát Bà, Dạ Xoa cúng dường Phật được thọ ký, họ sanh lòng hi hữu chưa từng có, do vì chúng sanh bất khả đắc vậy, vì không mạng giả, không sanh giả, không có nhơn, không trượng phu, không dưỡng dục, không thọ giả, không có ngã, không ngã sở vậy. Do các ấm mà gọi là chúng sanh. Tất cả các ấm cũng bất khả đắc. Do các giới chủng gọi là chúng sanh. Tất cả giới chủng cũng bất khả đắc. Do các nhập mà gọi là chúng sanh. Tất cả các nhập cũng bất khả đắc. Do có nghiệp nên có quả báo, mà hành nghiệp ấy cũng bất khả đắc, Vô thượng Bồ đề cũng bất khả đắc, tất cả Bồ Tát cũng bất khả đắc, tất cả chư Phật cũng b ất khả đắc. Dầu vậyđức Thế Tôn thọ ký cho chư Bồ Tát . Do nghĩa gì mà Như Lai thọ ký cho chư Bồ Tát, nêu bày danh hiệu của họ, hiển hiện nghiệp báo, nói đương lai Bồ Tát đại chúng, cũng hiển bày chư Phật thần thông lực, cũng nói chánh pháp lực, cũng hiển hiện trang nghiêm Phật độ, tuyên nói chúng sanh có nghiệp có báo, cũng nói Phật độ thanh tịnh, cũng hiển bày Bồ Tát du hành các phật quốc từ một Phật độ, cũng nói Bồ Tát đến đó cúng dường, cũng nói thần biến cúng dường thù thắng, lại liệt bày đồ cúng vi diệu hi hữu, lại nói qua bao nhiêu kiếp sẽ được làm Phật, đức Phật ấy trụ thế bao lâu, Phật ấy sẽ có bao nhiêu Thanh Văn, sau khi diệt độ chánh pháp của Phật ấy trụ thế bao lâu, tại sao Như Lai bỏ chúng sanh mà nhập đại Niết bàn ?

 Đại Thọ Khần Na La Vương sanh niệm nghi ấy liền cùng tám ức chúng Khẩn Na La lễ Phật chấp tay nói kệ bạch hỏi rằng :

 « Chúng tôi nghe Phật thọ ký rồi
 Lòng sanh nghi hoặc sao Đại Trí
 Đã nói thọ ký lại nói không
 Nơi hai thuyết ấy tôi chẳng hiểu
 Đã nói không tịch lìa tự tánh
 Pháp giới bình đẳng không biến động
 Mà sao Như Lai thọ cúng dường
 Việc ấy thế nào bạch Thế Tôn
 Đức Phật đã nói pháp vô sanh
 Mà lại nói phát tâm Bồ đề
 Đức vô lượng trí nói hai thuyết
 Thuyết ấy bí mật tôi chẳng hiểu
 Thế Tôn nói pháp không có diệt
 Màsao lại nói là có tử
 Ngưỡng mong như thiệt nói rõ cho
 Dứt hết lòng nghi tôi được mừng
 Sao đức Thế Tôn nói như ảo
 Mà lại nói rằng sanh cõi trời
 Đức Lưỡng Túc Tôn nói như vậy
 Giáo pháp bí mật tôi chẳng hiểu
 Phật nói các pháp không sở y
 Mà lại nói y thiện tri thức
 Đây là mật ngữ của Thế Tôn
 Tôi thiệt chẳng hiểu bạch Như Lai
 Tại sao Phật nói không sở tác
 Lại dạy chúng sanh tu hạnh nghiệp
 Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhơn Sư
 Lời nói bí mật tôi chẳng hiểu
 Tại sao Phật nói tánh tự không
 Lại nói quán không được giải thoát
 Ở nơi nghĩa nầy tôi chẳng hiểu
 Ngưỡng mong Như Lai dứt nghi cho
 Tại sao Phật nói sự tận diệt
 Lại nói các pháp tánh tịch diệt
 Chúng tôi ngưỡng mong đấng vô thượng
 Giải rõ những thuyết bí mật ấy
 Tại sao Thế Tôn cần kệ tụng
 Hiển thị các pháp như hư không
 Mà người ngu si hủy báng pháp
 Chết rồi chắc đọa đại địa ngục
 Đại Hùng luôn nói các thiện đạo
 Mà lại còn nói các đạo khác
 Đã nói các loài do tạo nghiệp
 Lại nói không có ai tạo nghiệp
 Đấng Vô Thượng Tôn thường tuyên nói
 Các thuyết sai biệt chẳng biết được
 Chúng tôi nơi ấy sanh nghi hoặc
 Ngưỡng mong Thế Tôn dứt trừ cho
 Đã nói nghiệp lành không họp được
 Lại nói tu hành được Bồ đề
 Sa Môn Pháp Vương nói như vậy
 Chúng tôi nơi ấy chẳng hiểu được
 Tại sao nói pháp bất khả tận
 Mà nói kẻ chê tội được hết
 Đấng vô lượng trí xin khai thị
 Chúng tôi nơi ấy rất nghi ngờ
 Như Lai đã nói pháp chơn tế
 Lại nói điên đảo và thí giới
 Đấng mắt sáng không lòa diệt tội
 Ngưỡng mong vì tôi nói nghĩa ấy
 Ngoài Phật không ai gì chúng tôi
 Giải thích được những điều nghi ấy
 Chỉ có Như Lai dứt trừ được
 Vì thế tôi kính đấng Đại Giác’’.

 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Đại Thọ Khẩn Na La Vương rằng :

 « Ông hỏi nói không lại thọ ký
 Nơi hai sự ấy chẳng hiểu được
 Các pháp nếu là chẳng phải không
 Thì Phật chẳng vì họ thọ ký
 Do nhơn duyên gì nói như vậy
 Các pháp nếu có thể tánh riêng
 Thì nó còn mãi chẳng chuyển được
 Nó phải chẳng giảm cũng chẳng tăng
 Các pháp thể tánh vốn tự không
 Dường như mặt gương bằng sạch sáng
 Hay hiện tất cả các sắc tượng
 Phải biết tất cả pháp như vậy
 Pháp giới không có tướng biến dị
 Ông nơi tất cả vật cúng dường
 Mỗi mỗi các phần nên quan sát
 Trong những phần nào mà có tướng
 Pháp giới thường trụ không biến khác
 Người trí phải nên quán như vậy
 Các người phàm phu đều mê hoặc
 Vì không trí huệ nên không hiểu
 Ông hỏi Phật nói là vô sanh
 Lại nói phát tâm nên khó hiểu
 Các ông nay phải nhứt tâm nghe
 Đấng thập lực nói nghĩa bí mật
 Phàm phu chìm ngập sông sanh tử
 Cũng còn buộc ràng nắm chỗ ấy
 Tâm thường ôm lấy tưởng điên đảo
 Nên thọ sanh tử các khổ não
 Từ trước đến nay chưa nghe pháp
 Phật nếu vì họ quyết định nói
 Phàm phu ngu mê nơi pháp ấy
 Càng thêm tăng trưởng các nghi hoặc
 Họ nghe Bồ đề lợi ích lớn
 Lòng họ chuyên chú nơi quả ấy
 Tâm họ lại còn sanh ham luyến
 Tự nhiên thắng trí không thông được
 Ông hỏi không diệt lại có chết
 Hai điều nầy ông chẳng biết được
 Nơi đây ông phải nhứt tâm nghe
 Phật sẽ vì ông nói chơn thiệt
 Vì các chúng sanh chấp thường kia
 Do đó Như Lai nói nghĩa diệt
 Hằng thấy những có đều suy hoại
 Không có một pháp nào là thường
 Ông hỏi các pháp như mộng ảo
 Lại nói sanh thiên nên nghi ngờ
 Hữu học phàm phu thiện ác đạo
 Pháp ấy bất định nên hư ảo
 Ông hỏi Phật nói không sở y
 Lại nói y chỉ thiện tri thức
 Vì người cầu rời bỏ y chỉ
 Nên thiện hữu nói không sở y
 Ông hỏi rốt ráo không tác năng
 Lại nói có tác nên chẳng hiểu
 Phải xem xe kia nhiều thành phần
 Cũng quán xe có những tác dụng
 Nếu lại có người chấp nơi ngã
 Cũng lại lấy những sự ngã làm
 Phật vì bọn họ nói không tác
 Dầu như vậy chẳng phải không dụng
 Ông hỏi tất cả tánh tự không
 Lại nghi quán không được giải thoát
 Người vô trí ngu si điên đảo
 Chẳng có biết được thể tánh không
 Từ nơi vọng tưởng phân biệt sanh
 Hư vọng phan duyên nên bị buộc
 Vì độ những chúng sanh như vậy
 Thế Tôn nói tánh chẳng phải có
 Như ông hỏi rằng sự tận diệt
 Tất cả các pháp tánh cũng diệt
 Các chúng sanh mê hoặc vô trí
 Vì vọng phân biệt nên khát ái
 Như kẻ khát nước thấy dương diệm
 Vì nhớ tưởng nên càng thêm khát
 Người ngu nên bị hư vọng hại
 Nơi vô sở hữu khởi phân biệt
 Người khát vọng sanh thấy tướng nước
 Nơi chỗ dương diệm nước vốn không
 Vọng tưởng làm hại các chúng sanh
 Nơi các bất tịnh tưởng là tịnh
 Phàm phu ngu si bị ái trói
 Trong nhơ xấu ấy tánh chẳng sạch
 Như dương diệm kia giống tướng nước
 Trong thể tánh nắng thiệt không nước
 Như vậy trong thân không sắc sạch
 Thân sắc cũng lại tánh chẳng sạch
 Phàm phu ngu si điên đảo thấy
 Vọng tưởng là sạch nên bị trói
 Dầu nói các pháp như hư không
 Cũng nói hủy báng đọa địa ngục
 Người ngu nghe nói sanh sợ sệt
 Người trí dầu nghe tâm an ổn
 Thế gian thể tánh tự không tịch
 Ngu si vô trí tưởng có ngã
 Bọn họ nếu nghe tánh không giáo
 Sợ sệt chẳng được còn thọ sanh
 Bọn họ hủy báng pháp tánh không
 Đều do vì họ chấp ngã kiến
 Như người trói buộc nơi hư không
 Người vô trí ấy đọa địa ngục
 Phật vốn đã nói các thiện đạo
 Và vì thế gian nói các đạo
 Nói có tạo nghiệp mà chẳng mất
 Cũng trừ chấp là có tác giả
 Tất cả các đạo dường cảnh mộng
 Phật vì ông nói biết như vậy
 Trong mộng không có tướng khứ hai
 Người thấy điên đảo chấp khứ lai
 Phật đã diễn nói xó tác nghiệp
 Suy tìm mười phương không tác giả
 Vì như gió lớn thổi cây khô
 Cây ấy chạm nhau phát sanh lửa
 Gió ấy cùng cây chẳng nghĩ tưởng
 Chúng ta hay phát xuát lửa ấy
 Dầu là như vậy mà lửa sanh
 Phải biết có nghiệp không tác giả
 Ông hỏi phước đức không tích tụ
 Sao họp Thiện được quả Bồ đề
 Nay Phật chơn thiệt vì ông nói
 Ông phải chăm chỉ chí tâm nghe
 Ví như người đời được trường thọ
 Mạng họ đến được hơn trăm tuổi
 Nơi số tuổi ấy không tụ tích
 Tất cả duyên họp cũng như vậy
 Ông hỏi các pháp không có tận
 Sao Phật lại nói nghiệp được hết
 Người quán không pháp không có cùng
 Tùy thế pháp nên nghiệp có hết
 Phật dầu nói có thiệt tế pháp
 Điên đảo cũng chẳng ngoài thiệt tế
 Hàng chúng sanh ngu si điên đảo
 Chẳng biết rõ được chơn thiệt tế
 Khẩn Na La Vương phải lắng nghe
 Vì người tinh tấn đủ tinh tấn
 Tất cả các tướng là nhất tướng
 Đó là vô tướngphải nên biết
 Nếu hay hiểu được nơi chữ nhứt
 Phật vì người trí nói Bồ đề
 Tất cả các tướng là nhất tướng
 Đó là vô tướng phải nên biết
 Nếu hay hiểu được nơi chữ nhứt
 Phật vì người tri nói Bồ đề
 Tất cả các pháp đều vô tác
 Đây nói chữ A môn tổng trì
 Tất cả Bồ Tát chỗ tu hành
 Vô biên hành tướng Phật đã nói
 Đây cũng vào được tất cả pháp
 Đó là chữ A môn tổng trì
 Tất cả các pháp đều tịch diệt
 Dạy môn chữ A khiến chứng nhập
 Khẩn Na La Vương phải nên biết
 Đây cũng chữ A môn tổng trì
 Tất cả các pháp vô phân biệt
 Vào pháp môn nầy Phật đã nói
 Khẩn Na La Vương phải nên biết
 Đây cũng chữ A môn tổng trì
 Tất cả các pháp không tự tánh
 Dạy môn chữ A khiến chương nhập
 Khẩn Na La Vương phai nên biết
 Đây cũng chữ A môn tổng trì
 Tất cả các pháp không vô biên
 Dùng môn chữ A nói các pháp
 Khẩn NaLa Vương phải nên biết
 Đây cũng chữ A môn tổng trì
 Pháp tận vô tận Phật đã nói
 Phải nói tất cả pháp vô tận
 Tất cả Như Lai đủ thập lực
 Đã nói môn tổng trì vô tận
 Tất cả các pháp không có môn
 Đã nói môn tổng trì vô tận
 Tất cả các pháp không có môn
 Vì vậy không nên hiện chẳng có
 Đây cũng tức là môn tổng trì
 Do đây vào được môn chữ A
 Nơi các pháp bất khả tư nghì
 Chư Phật biết thiệt hay hiển thị
 Thọ khẩn Na La Vương nên biết
 Đây cũng chữ A đà la ni
 Tất cả các pháp không sở thu
 Phật vì người trí nói Bồ đề
 Đây cũng tức là môn tổng trì
 Là môn chữ A phải nên nhập
 Tất cả các pháp không có lai
 Nếu người chẳng tu thì chẳng được
 Đây cũng tức là môn tổng trì
 Là môn chữ A phải nên nhập
 Các pháp giả danh đều sẽ có
 Suy tự tánh nó chẳng thể được
 Đây cũng tức là môn tổng trì
 Là môn chữ A phải nên nhập
 Tất cả các pháp không tự tánh
 Suy tự tánh nó chẳng thể được
 Đây cũng tức là môn tổng trì
 Là đà la ni của Phật nói
 Tất cả các pháp bất khả đắc
 Vì pháp tự tánh không nên vậy
 Đây cũng tức là môn tổng trì
 Là đà la ni Thiện Thệ nói
 Khẩn Na La Vương nên lắng nghe
 Tất cả các pháp lìa nghĩ nhớ
 Đây cũng tức là môn tổng trì
 Là môn chữ A phải nên nhập
 Chư Phật Thế Tôn đã hiển thị
 Vì pháp không thiệt không chướng ngại
 Đây cũng tức là môn tổng trì
 Nên nhập đà la ni chữ A
 Tất cả các pháp không chướng ngại
 Không có gì hay chướng các pháp
 Đây cũng tức là môn tổng trì
 Nhập mô chữ A Phật đã nói
 Tất cả các pháp không có sanh
 Người trí phải biết chỉ nhứt tướng
 Tất cả pháp kia là vô sanh
 Hãy biết pháp ấy không có danh
 Tất cả các pháp không có sanh
 Sanh ấy bổn lai bất khả đắc
 Đây cũng tức là môn tổng trì
 Là môn chữ A phải nên nhập
 Nếu pháp là không thiệt không sanh
 Chẳng nhìn thấy được chẳng chỉ được
 Các pháp tự tánh bất khả đắc
 Vì thế không có ai hay thấy
 Tất cả các pháp không có sanh
 Nên là nhứt tướng không có tướng
 Ví như hư không không có bằng
 Tất cả các pháp cũng như vậy
 Tất cả các pháp không tăng giảm
 Chẳng một chẳng hai chẳng nhiệt não
 Cũng chẳng phải lạnh chẳng phải nóng
 Vì chẳng phải có chẳng thấy được
 Không có tướng cong không tướng ngay
 Cũng không có tướng sáng tướng tối
 Cũng không những tướng thấy nghe thảy
 Là đà la ni vô sở hữu
 Chẳng phải siểm khúc chẳng chánh trực
 Không có các tướng co duỗi thảy
 Cũng không giận hờn không vui vẻ
 Lại không khởi tác không tịch diệt
 Không có tướng nhập và tướng xuất
 Không tiến không thối không lai vãng
 Cũng lại không ngủ và không thức
 Lìa tướng giác tri cần phải biết
 Chẳng phải mắt thấy cũng chẳng mù
 Không có năng kiến và ám chướng
 Cũng không tướng mở và tướng nhắm
 Chẳng có điểu phục chẳng điều phục
 Chẳng phải điệu động chẳng chỉ tức
 Chẳng phải thế gian chẳng Niết bàn
 Chẳng phải chơn thiệt chẳng hư vọng
 Phải biết Phật cảnh là như vậy
 Vì muốn điều phục các thế gian
 Dứt trừ lòng nghi cho các ông
 Trong đệ nhứt nghĩa ngoài Phật ra
 Tất cả không ai trừ nghi được ”.

 Đại Thọ Khẩn Na La Vương nghe đức Phật nói môn tổng trì lòng rất vui mừng phát tâm tinh tấn dũng mãnh, tức thì hóa làm tám ức lầu gác. Các lầu gác ấy hoặc ở trên cây, trên hoa sen hoặc ở trên núi, đều trang nghiêm bằng thất bửu, có lọng thất bửu, tràng thất bửu, tua tụi bữu hoa, tua tụi lụa nhiễu nhiều màu để trang sức.

 Đại Thọ Khẩn Na La Vương cùng tám ức Khẩn Na La cầm các thứ hoa trên đất, dưới nước tại Hương Sơn đề rải trên Phật rồi đều

 Lên lầu gác thất bửu bay nhiễu đức Phật ba vòng, lại rải hoa lên đức Phật rồi lại nhiễu đức Phật ba vòng nữa.

 Đại Thọ Khẩn Na La Vương và chúng Khẩn Na La xuống lầu gác đi nhiễu đức Phật ba vòng, đảnh lễ chân Phật, nhứt tâm chắp tau chiêm ngưỡng Thế Tôn mắt chẳng tạm rời đứng qua một phía suy nhớ đức Như Lai vô lượng công đức thuở quá khứhiện tại.

 Biết tâm nguyện của Đại Thọ Khẩn Na La Vương và tám ức chúng Khẩn Na La, đức Thế Tôn hiện tướng mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng :

 “ Phật chẳng phải không duyên mà cười
 Đấng Thiên Nhơn Sư nói như thiệt
 Chúng thấy Phật cười đều hoài nghi
 Nay thấy Tối Thắng như trăng non
 Bạch đức Thế Tôn hôm nay ai
 Nơi pháp vô nhị sanh thắng huệ
 Ngày nay tôi ôm lòng nghi hoặc
 Ngưỡng mong Thế Tôn trừ nghi cho
 Ai ở Phật pháp được tịnh tâm
 Do đó Như Lai hiện tướng cười
 Ngưỡng mong Như Lai nói rõ cho
 Chúng tôi hết nghi lòng vui mừng
 Bấy giờ tất cả hàng đại chúng
 Nếu nghe Phật nói đều mừng rỡ
 Nguyện trừ nghi hoặc cho đại chúng
 Như lời Phật dạy đều làm được
 Vì thế nên đấng Lưỡng Túc Tôn
 Dứt trừ nghi hoặc nói rõ cớ
 Nguyện vì Khẩn Na La Vương thảy
 Và vì tất cả các chúng sanh ”.

 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng :

 “ Lành thay Mã Thắng hỏi phải lúc
 Nay Phật vì ông phân biệt nói
 Do vì ông hỏi Phật hiển bày
 Đại chúng sẽ được Phật công đức
 Ông nên thanh tịnh tâm chuyên nhứt
 Nghe sự hi hữu chớ loạn ý
 Đức Thiện Thệ có trí tối thắng
 Tri kkiến rộng lớn không chướng ngại
 Đặt nghi vấn nơi Khẩn Na La
 Làm lợi tất cả các chúng sanh
 Nay Phật nói quả đương lai họ
 Lắng nghe Phật sẽ dứt nghi cho
 Thọ Khẩn Na La tám ức chúng
 Vương và quan dân các quyến thuộc
 Chúng ấy cúng dường nơi Phật rồi
 Từ đây mạng chung sanh cõi trời
 Từ đó về sau chín ức kiếp
 Lưu chuyển ở trong cõi Nhân Thiên
 Tu tập đầy đủ năm thần thông
 Được trí tự tại tâm tự tai
 Họ nơi na do tha Phật độ
 Là do chư Phật sai qua đó
 Thân ở cung trời luôn bất động
 Hằng thọ thiền duyệt vui an ổn
 Họ ở chín mươi ngàn muôn kiếp
 Tại trong Trời Người lưu chuyển rồi
 Mỗi mỗi ở trong Phật độ mình
 Đều được thành bực vô thượng đạo
 Kiếp ấy hiệu là Thường Chiếu Diệu
 Ở trong kiếp ấy thành Phật đạo
 Đây đều hạng nhứt sanh bổ xứ
 Chúng trí huệ ấy sẽ thành Phật
 Phật độ ấy không một người nào
 Chẳng phải người tu hành thành thục
 Đều là bực nhứt sanh bổ xứ
 Không người cầu Thanh Văn Duyên Giác
 Tất cả đều là đại Bồ Tát
 Người soi sáng đời đều sanh đó
 Đều là người nhứt sanh bổ xứ
 Họ đều sẽ được thành Phật đạo
 Cõi ấy các chúng đại Bồ Tát
 An trụ trong hoằng thệ đại nguyện
 Ở trong vô lượng chư Phật độ
 Ta đều sửa trị khiến thanh tịnh
 Bồ Tát ấy nguyện rất rộng lớn
 Ở trong đêm dài khéo suy lường
 Vì họ có tính nguyện thanh tịnh
 Đều riêng sửa trị Phật độ mình
 Các Phật độ ấy trang nghiêm đẹp
 Xa rời tất cả các phiền não
 Đất ấy khắp nơi có cung điện
 Giải thoát tất cả các ác đạo
 Bao nhiêu tội áctám nạn
 Các Phật độ ấy thảy đều không
 Đã tu thanh tịnh Phật độ rồi
 Chúng sanh liền được dễ điều phục
 Như vậy Thế Tôn Thiên Trung Thiên
 Nói thọ ký cho Khẩn Na La
 Tất cả chư đại chúng hiện tại
 Nghe rồi thảy đều rất vui mừng ” .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33346)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6581)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11338)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30432)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30460)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8008)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12242)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12283)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11642)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12885)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34845)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9871)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52301)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10790)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10550)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10746)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10498)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13109)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16320)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21891)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9650)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7153)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10419)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12810)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12826)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16267)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16561)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13898)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16627)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12163)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13870)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14352)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9240)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11777)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11300)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16373)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14387)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16226)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12715)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12121)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11822)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15697)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11547)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14047)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12037)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12692)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15019)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11984)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13155)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14584)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20758)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13259)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10994)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20747)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14394)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20435)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17688)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14053)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31888)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12047)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant