Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 5: Giữ Gìn Chánh Trí

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 12410)
Chương 5: Giữ Gìn Chánh Trí

Chương Năm
Giữ Gìn Chánh Trí 

1-2.

Giới là gìn giữ tâm căn ,
Voi say không hại bằng tâm si cuồng .
Tâm cuồng nếu
cứ thả rông ,
A tỳ địa ngục sẽ trông đợi mình .

3.

Dây chính niệm buộc tâm điên dại ,
Ta đâu còn lo ngại điều chi .
Nếu làm được vậy thường khi ,
Thì công đức ấy không gì quý hơn .

4-5. 

Bao nhiêu thú dữ , cừu nhân ,
Ngục hình , la sát , quỷ thần .
Đều vô hiệu hóa nếu mà giử tâm ,
Thấm nhuần tất cả vì tâm đã thuần .

6-7. 

Phật từng dạy vô vàn thống khổ ,
Do tâm sinh tất cả không chừa .
Ngục hình ai đã tạo ra .
Nữ nhân địa ngục ấy là ai sinh.

8. 

Bao nhiêu hình cụ kể trên ,
Đều do tâm ác tà nên hiện hành .
Thế nên vật đáng sợ kinh ,
Trong ba cõi chỉ tâm mình đấy thôi .
9.
 
Nếu làm mọi chúng sinh hết khổ ,
Mới gọi là thí độ cao siêu .
Sao nay chúng vẫn khó nghèo ,
Khi xưa bố thí Phật theo cách nào .

10. 

Cái tâm hoan hỷ tặng trao ,
Thân, tài, thiện quả cho bao hữu tình .
Gọi là thí độ cao minh ,
Cho nên bố thí cốt hành từ tâm .

11. 

Lùa đâu các loại cá tôm ,
Cùng muôn thú vật tránh cơn săn tầm .
Hãy trừ diệt mọi ác tâm ,
Tức thành Giới độ việc làm không sai .

12. 

Trên thế gian dẫy đầy kẻ ác ,
Điều phục sao cho hết chúng đây .
Nhưng khi chấm dứt sân si ,
Cũng như tận diệt thù kia một lần .

13. 

Làm sao có đủ lượng da ,
Trải trên đại địa để mà êm chân .
Chỉ cần mảnh nhỏ dưới chân ,
Cũng như lót thảm toàn phần đất đai .

14-15

Kẻ thù ngoài không sao dẹp hết ,
Điều phục tâm cần diệt chi đâu .
Tâm minh quả báo cao siêu ,
Hơn hành động tốt tâm nhiều xấu xa .

16-17. 

Tụng kinh , khổ hạnh sa đà ,
Nhưng tâm tán loạn cũng là vô công . 
Phật đà cốt dạy tâm tông ,
Không tường lẽ ấy trầm luân ba đường .

18-19. 

Khéo giữ đạo tâm thường như thế ,
Thì đâu cần giữ các giới kia .
Giữa đời ác độc xấu xa ,
Nên xem Tâm ấy như là vết thương .

20. 

Ta lo chữa nhọt trên thân ,
Sợ khi phát tác khó phần ở yên .
A tỳ ngục khổ vô biên ,
Tâm này ung nhọt đáng nên kinh hoàng .

21-22. 

Dù ở giữa ác nhân , nữ sắc ,
Quyết giữ tâm chắc chắn không lui .
Thà ta mất hết thân , tài ,
Quyết không tổn hại tâm này được đâu .

23. 

Chắp tay thành khẩn khuyên nhau ,
Giữ tâm cốt yếu gồm thâu hai điều .
Một là chính niệm thường theo ,
Hai là tỉnh giác lúc nào tâm lung .

24. 

Kẻ thân bệnh thì không còn sức ,
Làm việc gì lợi ích cho ai .
Tâm mà phiền não sử sai ,
Thiện hành thật cũng không tài nào xong .

25. 

Người không tỉnh giác trong tâm ,
Thì không nhớ được pháp phần hay ho .
Những gì học bởi văn , tư ,
Như bình rò rỉ nước vô chảy dài .

26. 

Dù có tín , đa văn , tinh tấn ,
Tỉnh giác không, cũng chẳng ích chi .
Nghĩa là khi mất chính tri ,
Liền sa tội lỗi sân si đủ điều .

27. 

 Lỗi không tỉnh giác thường theo ,
Sau đuôi thất niệm ngõ hầu hại ta .
Cướp bao công đức hà sa ,
Khiến xui ta đọa nẻo tà ác kia .

28. 

Bọn giặc bất chính tri , thất niệm ,
Luôn rắp ranh cướp thiện pháp mình .
Pháp thân huệ mạng tiêu dên ,
Lấp đường đến cõi nhân thiên tốt lành .

29. 

Vậy nên hành giả tu tâm ,
Không lơi chính niệm trong tâm ý mình .
Nhớ luôn tai họa voi điên ,
Tức thì chính niệm ở yên tâm này .

30. 

Nhờ sợ đọa , theo thầy học đạo ,
Nhớ những lời chỉ giáo đinh ninh .
Kẻ nào có đủ đức tin ,
Dễ làm chính niệm phát sinh nơi lòng .

31-32. 

Bằng tri kiến rất suốt thông ,
Phật và Bồ tát thấy trong tâm mình .
Đáng nên tàm quý sợ kinh ,
Tư duy như vậy ta liền chính tâm .

33. 

Do cửa ý không lơi chính niệm ,
Mà chính tri xuất hiện theo sau .
Những gì quên mất từ lâu ,
Cũng liền trở lại làu làu trong tâm .

34. 

Khi mầm ác mới manh nha ,
Biết ngay tai họa để mà giữ tâm .
Ở trong chính niệm bình an ,
Như cây bám vững trong lòng đất kia .

35-36. 

Chớ bao giờ ngó lia dáo dác ,
Luôn quyết tâm hạ mắt tầm trông .
Khi cần dưỡng mục nhìn mông ,
Thấy ai hãy cứ ôn tồn hỏi han .

37. 

Khi đi quan sát bốn phương ,
Đề phòng bất trắc trên đường ta đi .
Muốn xem sau có việc gì ,
Dừng chân rồi sẽ xoay người ngó lui .

38. 

Khi xem kỹ trước sau đường lối ,
Mới tiến lên hoặc thối quay về .
Ở vào tất cả mọi khi ,
Phải nên nhận thức hành vi đáng làm .

39-40. 

Mỗi khi đi đứng ngồi nằm ,
Hãy luôn rõ biết thân đang làm gì .
Cái tâm voi chúa cuồng si ,
Buộc nơi trụ Pháp hết khi chạy quàng .

41. 

Bậc hành giả tinh chuyên tập định ,
Không lúc nào quên tỉnh giác tâm .
Luôn luôn để ý canh chừng ,
Xem trong tâm ý hiện hành ra sao .

42. 

Gặp cơn nguy, dịp ăn khao ,
Không sao chuyên chú tâm vào chính tri .
Cũng nên trú xả an vi ,
Như khi bố thí khó bề trú tâm .

43. 

Khi làm một việc gì đã định ,
Nên chú tâm đừng tính lăng xăng .
Phải làm việc ấy cho xong ,
Tính qua việc khác cũng không hại gì .

44. 

Thế thì mọi việc thi vi ,
Sẽ nên thành tựu, chính tri cũng thành .
Tâm kia tán loạn không tăng .
Thói quên tỉnh giác không hằng lớn thêm.

45-46. 

Giữa đám người xem phim , tán chuyện ,
Hãy đoạn tâm tham luyến việc này .
Đừng vô cớ hại cỏ cây , 
Việc gì phạm giới bỏ ngay không làm .

47-48. 

Thân di động, miệng nói năng ,
Trước nên quán xét nên chăng sẽ làm . 
Khi tâm nổi giận hay tham ,
Như cây đứng lặng dứt làm, nói phô .

49-50. 

Khi tâm khởi lăng xăng tán loạn ,
Phê bình người , ngã mạn , dối , khinh .
Lời thô , ly gián , khen mình ,
Hãy như cây đứng , dứt dừng lời thô .

51-52. 

Khi tâm nghĩ đến lợi danh ,
Ham người cung kính muốn thành chủ ông .
Muốn điều ích kỷ hại nhân ,
Hãy như cây đứng , ở an không làm .

53.

 Tâm không nhẫn, biếng làm, sợ hãi ,
Muốn thốt lời vô nghĩa linh tinh .
Hoặc sanh thiên ái không bình ,
Hãy như cây nọ đứng yên vững vàng .

54. 

Xét từng tâm lý nhiễm ô ,
Ưa làm những việc bá vơ chẳng cần .
Dùng phương pháp trị mỗi lần ,
Kiên trì quyết giữ định an tâm này .

55. 

tín đức sâu xa , cương quyết ,
Tâm an bình, cung kính, siêng năng .
Biết tàm quý, sợ gieo nhân ,
Luôn luôn mong muốn vui an cho người .

56. 

Đừng sinh chán ghét trong tâm ,
Thấy bao nhiêu kẻ thường hằng trái nhau .
Từ bi trải khắp một bầu ,
Thương thay sinh chúng xiết bao mê lầm .

57. 

Muốn cho lợi ích riêng mình ,
Và cho sinh chúng, khéo đừng trái sai .
Luôn luôn buộc chặt tâm đây ,
Quán đời như huyễn mây bay cuối trời .

58. 

Hãy luôn thấy thân người khó được ,
Được an nhàn vô bệnh khó thay .
Vậy nên cốt giữ tâm này ,
Ở yên bất động sánh tày non cao .

59-60. 

Này tâm, ngươi vẫn không sao ,
Lúc chim kên đến tranh nhau thân này .
Đừng xem nó chính tôi đây ,
Ngươi không phải nó , ôm thây ích gì .

61. 

Này tâm ý rất ngu si ,
Sao không giữ tịnh thân như cây rừng .
Giữ chi cái bộ máy thân ,
Chứa bao ô uế bại vong thế mà .

62-64. 

Trước dùng ý tách da khỏi thịt ,
Dùng tuệ đao lóc thịt khỏi xương .
Chẻ cho đến tận tủy gân ,
Thấy chi tinh diệu , mến thương nỗi gì .

65. 

Sao ngươi bám chặt thân này ,
Khi không ăn uống được gì nơi thân .
Máu phân mũi dãi ruột gan ,
Toàn là những thứ vô vàn uế dơ .

66. 

Cái thân này chỉ như thực phẩm ,
Cho quạ chồn thú vật ăn thây .
Chỉ nên ham thích thân này ,
Để khi hành thiện sử sai mọi điều .

67. 

Nếu ngươi tiếc giữ cái thân ,
Khi giờ chết đến liệu làm được chi .
Tử thần sẽ đoạt tử thi ,
Cho chim thú rỉa , chẳng gì xót thương .

68-69. 

Khi tôi tớ không đương nổi việc ,
Ông chủ thường dứt tiệt thù lao .
Nuôi thân mà nó tẩu đào .
Chẳng nên quý chuộng , tơ hào không cho .

70. 

Hãy nên xem cái thân đây ,
Như con thuyền tốt đưa người lại qua .
Chuyển thân trong cõi ta bà ,
Thành thân như ý Phật đà bảo ban .

71. 

Hãy tự chủ thân lời tâm ý ,
Hãy thường nên lộ vẻ vui tươi .
Chớ nên nhăn mặt nhíu mày ,
Luôn làm bạn tốt mọi loài chúng sinh .

72. 

Mỗi khi di chuyển ghế giường ,
Hoặc khi mở cửa, tránh ồn inh tai .
Nói năng hiền dịu hòa hài ,
Luật nghi Con Phật nhớ hay giữ gìn .

73. 

Chim bắt cá , mèo rình , trộm cắp ,
Hành động im phăng phắc, nín thinh .
Cho nên thành tựu việc mình ,
Phật hành cũng vậy , mới nên đạo mầu .

74. 

Sống chung hãy khéo khuyên nhau ,
Làm lành lánh dữ lời câu chân thành .
Ai khuyên điều lợi cho mình ,
Xem như thầy dạy , tận tình sửa sai .

75-76.

 Hãy khen ngợi những lời khéo thuyết ,
Vui theo cùng việc phước của người .
Nếu ai ca tụng đức ngươi ,
Phản quan xem thử lời người đúng sai .

77. 

Hãy nên tùy hỉ thiện hành ,
Niềm vui khó được biến thành bao la .
Khi trong khắp cõi ta bà ,
Xiết bao thiện sự người ta hiển bày .

78. 

Vui theo chẳng có gì mất mát ,
đời sau phúc lạc càng sâu .
Nếu do ganh tị phát rầu ,
Sẽ thêm thống khổ đớn đau nhiều bề .

79. 

Lời chân thật hãy nói ra ,
Nghĩa lời minh bạch nghe mà hân hoan .
Lìa bao động lực tham sân ,
Nhu hòa , thích đáng thêm phần an vui .

80. 

Hãy nhìn với từ tâm, thành thực ,
Mọi hữu tình, xem thật từ đây .
Tôi nhờ cậy chúng sinh này ,
Mà ngôi chính giác tương lai viên thành .

81. 

Nhiệt tâm khởi niệm làm lành ,
Hãy tu đối trị ác hành thường xuyên .
Như nơi ba thứ phước điền ,
Nếu gieo sẽ gặt vô biên phúc phần .

82. 

Trang bị đủ đức tin, trí sáng ,
Hãy thường nên hành thiện không lơ .
Bao nhiêu việc tốt chớ từ ,
Tự mình đương lấy chẳng nhờ cậy ai .

83. 

Tiến tu sáu độ đêm ngày ,
Chớ vì việc nhỏ mất ngay pháp lành .
Hãy thường thương tưởng chúng sinh ,
Sao cho tất cả hữu tình an vui .

84. 

đạo lý như Kinh vẫn dạy ,
Nên thường xuyên ích lợi hữu tình .
Như lai Thiện thệ cao minh ,
Khai vài giới cấm thanh văn phải gìn .

85. 

Lúc ăn san sẻ trước tiên ,
Cho ba ác đạo , bậc hiền , đơn côi .
Khi ăn vừa đủ nên thôi ,
Mặc thì nhớ giữ không ngoài ba y .

86. 

Cái thân để duy trì chính pháp ,
Chớ nên vì việc vặt hi sinh .
Nếu hay như vậy tu hành ,
Chóng nên ước nguyện chúng sinh mong chờ .

87. 

Chẳng nên thí xả mạng này ,
Nếu không bi nguyện sánh tày biển non .
Đời đời chỉ nguyện xả thân ,
Mưu cầu lợi ích muôn vàn chúng sinh .

88-89. 

Không nói pháp cho người thiếu lễ ,
Cầm gậy , dù , binh khí , trùm đầu .
Cho người nữ không bạn bầu .
Với người thiếu trí pháp sâu chớ bàn .

90. 

Nương theo kinh giáo tu hành ,
Không tuyên pháp tiểu cho trình độ cao .
Hạnh bồ tát chớ lãng xao ,
Không dùng chú thuật âm mưu dối người .

91. 

Khi vứt tăm xỉa và nhổ bọt ,
Đồ uế dơ hãy lấp đất lên .
Những gì phế thải linh tinh .
Nước trong , đất sạch không nên vứt vào .

92. 

Lúc ăn chớ ngậm cơm đầy ,
Không nhai ra tiếng miệng thì há to .
Khi ngồi không duỗi chân ra ,
Hai bàn tay chớ xoa chà vào nhau .

93. 

Ở những nơi xe, tàu hỗn tạp ,
Không cùng người khác phái kề bên .
Tránh điều dễ mất niềm tin ,
Thế gian dị nghị cơ hiềm dứt ngay .

94-95. 

Chớ ra hiệu bằng búng tay ,
Nên cung kính duỗi bàn tay chỉ đường .
Tỏ bày ý kiến nhẹ nhàng ,
Vung tay múa ngón thói thường chớ theo .

96. 

Khi nằm ngủ quay đầu phương Bắc ,
Hướng niết bàn của Phật Thế tôn .
Duy trì tỉnh giác quyết tâm .
Đến khi muốn thức phải choàng dậy ngay .

97. 

Giới điều bồ tát luật nghi ,
Không sao kể xiết những gì trong kinh .
Hãy nên dốc hết sức mình ,
Tu trì giới tịnh tâm hành như trên .

98-99. 

Kinh Ba tụ ngày đêm sáu buổi ,
Đọc cho thường , sám hối tội khiên .
Nương theo năng lực kể trên ,
Theo lời Phật dạy tinh chuyên tu hành .

100.

Giới nào có giới chẳng cần ,
Cho Con Phật muốn viên thành phước sơn .
Khéo hành như vậy luôn luôn ,
Quyết là phước đức tràn tuôn vô ngần .

101.

Dù trực tiếp hay là gián tiếp ,
Mỗi hành đều hướng nghiệp lợi tha .
Bao nhiêu công đức hà sa ,
Hướng về quả Giác cũng cho hữu tình .

102.

Dù cho mất tính mạng mình ,
Quyết không từ bỏ Bạn lành đáng ưa .
Tinh thông giáo nghĩa đại thừa ,
Thực hành viên mãn giới Bồ tát kia .

103.

Những phép tắc hầu thầy nên biết ,
Được nói trong hầu hết Luật, Kinh .
Như trong truyện Cát tường sinh .
Kinh Hoa nghiêm ấy hãy xem cho tường .

104.

Giới thường rải rác trong kinh ,
Vậy nên người học phải tinh Kinh tàng .
Trong Ba kho chứa lời vàng ,
Có kinh “ Thánh xử Không tàng ” đáng xem .

105.

Lại nên biết lý do tu tập ,
Những điều này phải đọc trong kinh .
Học xứ tập yếu là kinh ,
Kèm theo bộ luận trùng tên giải rành .

106-107. 

Xem Toát yếu tất cả kinh ,
Luận ngài Long thụ nên xem cho tường .
Những gì Luật chẳng cấm ngăn ,
Hãy nên tu học thế gian nương nhờ .

108-109. 

Tóm tắt , nghĩa khôngtỉnh giác ,
Là luôn luôn quan sát thân tâm .
Và nên y giáo phụng hành ,
Chỉ xem toa thuốc chẳng lành bệnh đâu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29875)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27150)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21755)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22224)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23599)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20410)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24735)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18973)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24718)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30962)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23970)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27756)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26501)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21293)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23204)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38106)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18798)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18424)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19942)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19025)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23134)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23863)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22780)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22895)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29557)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20629)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18704)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15840)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18833)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19640)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20143)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19943)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18108)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22913)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34155)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16406)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16913)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39202)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26041)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20082)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18828)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24045)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29097)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22897)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30925)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20997)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26839)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20662)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26238)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23314)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19813)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24658)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30005)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20208)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20399)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15134)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15822)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23858)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant