Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Tinh Tấn

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 12411)
Chương 7: Tinh Tấn

Chương Bảy
Tinh Tấn

1. 
 
Kế nhẫn nhục cần tu tinh tấn,
Tâm bồ đề mới vững trú luôn .
Gió lay quả phúc tràn tuôn ,
Không siêng kh
ó động mạch nguồn tâm linh .

2. 

Siêng là hăng với việc lành ,
Không bao giờ tự bỉ thối lui .
Cũng không biếng nhác nằm dài ,
Hay là tham đắm việc đời lăng xăng .

3. 

Do ham hưởng thú vui làm biếng ,
Ưa ngủ nhiều thành tánh trong ta .
Luân hồi sinh tử khó ra ,
Vì không chán khổ, mê sa thói lười .

4. 

Sao chưa biết được lẽ này: ,
Lưới mê đã vướng khó ngày thoát ra. .
Bào thai ngục ấy lại sa ,
Để thêm tái diễn bi ca khổ sầu .

5. 

Không thấy sao bao người thân thích ,
Đã dần theo thần chết ra đi .
Vẫn tham say ngủ li bì ,
Như trâu bất động trước người đồ phu .

6-7. 

Niêm phong ngõ thoát không chừa, ,
Tử thần rình rập, đang chờ nạn nhân .
Đợi khi nước đã đến chân ,
Mới lo thì đã muộn màng ích chi .

8-9. 

Bất kể việc ta còn dang dở ,
Thần chết liền chiếu cố thân ta .
Bà con tuyệt vọng lân la ,
Đau buồn sưng mặt lệ sa đầm đìa .

10. 

Hãi hùng nghe tiếng âm ty ,
Cuống cuồng phóng uế lấp che thân mình .
Ăn năn tội lỗi bình sinh ,
Nhưng đà quá muộn trước tình thế nay .

11. 

Trước thần chết tâm này hoảng hốt ,
Như cá nằm trên thớt bất an .
Huống chi thống khổ muôn vàn ,
Ở trong địa ngục ác hành tạo nên .

12. 

Như thịt da trẻ sơ sinh ,
Nước sôi chạm đến, cực hình nào hơn .
Sao ta có thể an nhiên ,
Khi mình đã tạo tội khiên quá nhiều .

13. 

Tai họa đến cho người biếng nhác ,
Mong quả lành không quyết gắng công .
Khi thần chết đến bên hông ,
Miệng kêu khổ đến thiên thông thét gào .

14. 

Thân người như chiếc xuồng nan ,
Đưa ta vượt biển muôn vàn hiểm nguy .
Khó tìm khi đã mất đi ,
Chớ ham ngủ kẻ ngu si biếng lười .

15. 

Sao bỏ luống niềm vui chính pháp ,
Suối nguồn bao pháp lạc cao siêu .
Thú vui thấp kém đuổi theo ,
Chỉ đưa ngươi đến đủ điều rối ren .

16. 

Hãy can đảm trữ hành trang: ,
Tập thiền tự chủ thân tâm cho thường; .
Quán ta bình đẳng tha nhân ,
Đổi trao địa vị bản thân với người .

17. 

Đừng nên khiếp nhược thối lui ,
Nghĩ rằng ta chẳng có tài cán chi .
Làm sao giác ngộ được gì ,
Hãy nghe kinh giáo Như lai dạy rành .

18-19. 

Chỉ cần có đức siêng năng ,
Dù cho ruồi muỗi ( cũng ) chứng thành ngôi cao .
Huống là nhân loại như ta ,
Nếu không xả giới quyết là chứng nên .

20. 

Nếu ngươi sợ bỏ tay chân ,
Như trong Giới luật khuyên nên gắng làm .
Thật là lo sợ viễn vông ,
Kẻ ngu chưa biết biện phân chính tà .

21. 

Ngươi đã trải qua vô số kiếp ,
Nào bị đâm bị đốt, xả cưa .
ngu si vẫn như xưa ,
Bồ đề vô thượng vẫn chưa viên thành .

22-23. 

Nay ta vì hạnh bồ đề ,
Như người chữa bệnh không nề đớn đau .
Chịu đau nhỏ trừ hại to ,
Khổ này có hạn, không lo kéo dài .

24. 

Phương pháp này Y vương chẳng dụng ,
Chữa lành vô số chứng nan y .
Dược phương ngài rất tinh vi ,
Không gây đau đớn chút gì chúng sinh .

25. 
Dạy tu bố thí trước tiên ,
Đem cho vật thực Phật khuyên nên hành .
Đã quen thí vật linh tinh ,
Dần cho cả máu thịt trên thân mình .

26. 
 
Khi đối tự thân mình đã rõ ,
Không khác gì cọng cỏ lá rau .
Thì không khó nhọc chi đâu ,
Xả thân bố thí mình đầu chân tay .

27.

 Ác hành khi đã cạn vơi ,
Thì không còn khổ, trọn đời an nhiên .
Dứt tà phân biệt, hết phiền ,
Thân tâm thanh tịnh tội khiên sạch làu .

28. 

Phước đức trang nghiêm thân tươi mát ,
Tuệ sáng ngời Bồ tát tâm an .
Vì đời nguyện trú tử sanh ,
Đâu còn chán ghét thế gian não phiền .

29. 

Bồ đề năng lực vô biên ,
Tiêu trừ ác nghiệp tiền khiên bao đời .
Lại tăng phước tận trùng khơi ,
So Thanh văn chúng chẳng ai sánh bì .

30. 

Hãy ngự trên bồ đề tuấn mã ,
Làm tiêu tan tất cả chán chường .
Chớ lùi hãy vững dây cương ,
Từ an vui đến vô vàn an vui .

31. 

Dục , tín , hỉ , xả không lơi ,
Khiến ta lợi lạc cho người thế gian .
Dục là mong thoát tai nàn ,
Việc làm thiếu dục không xong được nào .

32. 

Lực tinh tấn muốn tăng thêm mãi ,
Phải cố trừ giải đãi ươn hèn .
Mong cầu, hỉ, xả, tự tin ,
Tiến lên tự chủ cần chuyên thiện hành .

33. 

Nguyện trừ vô số tội khiên ,
Vì thân ta, lẫn vô biên hữu tình .
Dứt điều ác tận ngọn ngành ,
Phải bao đời kiếp tu hành mới xong .

34. 

Nhưng nếu ta chưa từng phát khởi ,
Một niệm trừ tội lỗi mầm tà .
Khổ nàn chắc sẽ đọa sa ,
Làm sao không khiến tim ta hãi hùng .

35. 

Vô biên công đức nguyền tu ,
Đem bao lợi ích cho ta lẫn người .
Chỉ duy một đức trong đây ,
Cũng cần vô số kiếp dày công tu .

36. 

Thế mà nay ta chưa có được ,
Chút phần nào công đức phải tu .
Một đời vô nghĩa luống qua ,
Lạ thay chẳng tiếc thân kia khó còn .

37. 

Ta chưa vì Phật hiến dâng, ,
Chưa bày yến tiệc mời từng chúng sinh .
Chưa theo giáo lý thực hành ,
Chưa tầng thỏa mãn hữu tình khát khao .

38.

Với người sợ, chưa bao che nổi ,
Chưa mang vui sướng tới kẻ sầu .
Riêng mình chắc phải khổ đau ,
Nhập thai , già chết , sầu ưu não nề .

39. 

Bao nhiêu thống khổ ê chề ,
Đều do tôi đã chưa hề ham tu .
Thuốc hay sao lại chối từ ,
Khi đà biết rõ ngục tù đớn dau .

40. 

Phật đã dạy mong cầu là gốc ,
Làm phát sinh bao đức tốt lành .
Muốn cầu diệu pháp quang minh ,
Tư duy khổ quả nghiệp nhân cho tường .

41. 

Bao nhiêu khiếp sợ, đau thương ,
Xa lìa ân ái, ghét thường kề bên .
Cầu không toại ở không yên ,
Đều do ta đã gây nhân bao đời .

42. 

Đến đâu cũng được thảnh thơi ,
Là do phúc trước chiêu vời quả son .
Việc lành ta đã vuông tròn ,
Mong người thoát khổ nỗi lòng ước ao .

43. 

Kẻ ác nhân mong cầu hạnh phúc ,
Vẫn gặp đầy nhung nhúc khổ đau .
Vì chưng khổ báo thường theo ,
Chân trời góc biển không đâu thoát nàn .

44a. 

Tu nhân tích chứa phúc lành ,
Hóa sinh vào đóa bạch liên thơm lừng .
Trong hoa mát mẻ thênh thang ,
Diệu âm pháp hỷ chứa chan thân mình .

44b. 

Thân tâm tràn ngập quang minh ,
Phật quang chiếu xúc hoa liền mở ra. .
Hân hoan kính lễ Di Đà ,
Tôi thành Con Phật trước tòa Như Lai .

45. 

Tạo nghiệp ác ghê thay thống khổ ,
Bị đọa vào những chỗ rên la .
Nước đồng sôi rưới tuột da ,
Giữa nền sắt nóng ngã ra nát nhừ .

46. 

Vậy nên ta phải chuyên tu ,
Mong cầu thiện pháp siêng lo việc lành .
Hãy đọc kinh Kim cang tràng ,
Dạy tu tự tín, thực hành điều hay .

47. 

Mỗi khi muốn bắt tay vào việc ,
Khả năng mình hãy xét trước tiên .
Không kham nên bỏ ngay liền ,
Làm thì cho đến vẹn tuyền mới thôi .

48. 

Bởi vì nếu cứ thối lui ,
Thói quen ảnh hưởng nhiều đời vị lai .
Khổ đau cứ thế nối dài ,
Việc lành dang dở quả thời dở dang .

49. 

Với thiện hành hãy nên tự tín ,
Nghĩ mình ta nhất định đảm đương .
Khả năng đoạn hoặc chứng chân ,
Trong ta có sẵn, chớ thường tự khinh .

50. 

Người đời khó đạt lợi mình ,
Xiết bao phiền não xích xiềng buộc thân .
Huống là lợi kỷ lợi nhân ,
Như ta đã được phúc phần xuất gia .

51. 

Thế nhân vẫn cần cù việc vặt ,
Sao ta đành ngoảnh mặt an thân .
Cho rằng việc chẳng tương ưng ,
Siêng năng thiện sự nhớ đừng kiêu căng .

52. 

Với con rắn độc chết nhăn ,
Quạ kia lẫm liệt uy phong đại bàng .
Đức tin yếu kém nơi lòng ,
Thì suy sụp bởi sai lầm nhỏ nhoi .

53. 

Kẻ yếu kém bỏ rơi nỗ lực ,
Khó giải trừ phước đức hiếm khan .
Với người cố gắng tinh chuyên ,
Dù bao trở ngại không phiền não chi .

54. 

Đức tin tôi sẽ kiên trì ,
Vượt qua đọa lạc tiêu trừ ác duyên .
Lỗi lầm nếu thắng lướt mình ,
Làm sao ra khỏi tử sinh luân hồi .

55. 

Phải chiến thắng não phiền tội ác ,
Đừng để cho tội ác thắng ta .
Như lai pháp tử giống nhà ,
Kiên trì tự tín mới ra con nòi .

56. 

Những người ngã mạn hợm mình ,
Là không có đủ tự tin nơi lòng .
Tự tin nên khỏi long đong ,
Như người ngã mạn khó hòng an tâm .

57. 

Trong ngã mạn ngoài kiêu căng ,
Sẽ sa đường ác gian nan lâu dài .
Mất toi phúc lạc kiếp người ,
Làm thân nô bộc trọn đời hẩm hiu .

58. 

Ngu si xấu xí hao gầy ,
Đến đâu cũng bị mọi người rẻ khinh. .
Kẻ tu khổ hạnh hợm mình ,
Không vào trong số tự tin thiện hành .

59. 

Ai muốn thắng quân thù ngã mạn ,
kiên trì tự tín trong tâm .
Chính là chiến thắng vẻ vang ,
Chóng thành nguyện ước thế gian mong chờ .

60. 

Giữa rừng phiền não bao vây ,
Trăm ngàn nhẫn chịu không hề nóng nôn .
Như sư tử giữa bầy chồn ,
Quyết không để giặc não phiền hại ta .

61. 

Kẻ lâm nạn giữ gìn đôi mắt ,
Giữa chợ đời dễ gặp khốn nguy .
Nếu ta mắt tuệ bảo trì ,
Ma quân phiền não chẳng hề đáng lo .

62. 

Thà bị thiêu đốt, chặt đầu ,
Còn hơn khuất phục giặc ngu não phiền .
Ở nơi đâu, mọi thời gian ,
Thề không làm việc bất ưng vô nghì . 

63. 

Như con trẻ trò chơi theo đuổi ,
Tôi cũng thề săn đuổi thiện hành .
Đam mê thích thú hết mình ,
Không bao giờ chán, nhiệt tình hăng say .

64. 

Thế nhân nỗ lực cầu vui ,
Mà không chắc được niềm vui mong cầu .
Lợi tha mang lại an vui ,
Nếu không làm chẳng có vui được nào .

65. 

Người đời không chán ham năm dục ,
Mãi ham mê liếm mật đầu gươm .
Dẫn sanh an lạc niết bàn ,
Thiện hành công đức đáng ham gấp mười .

66. 

Để viên thành phước cao thâm ,
Hãy siêng hành thiện với niềm hân hoan .
Như voi lao xuống đầm sen ,
Giữa trưa nóng bức ngâm mình khoái thay .

67. 

Khi thân tâm đã mệt nhoài, ,
Thì nên dưỡng sức, tạm thời xả buông .
Việc gì khi đã làm xong ,
Cũng nên xả để tính sang việc ngoài .

68. 

Như chiến sĩ sa trường lão luyện ,
Phản công ngay đường kiếm kẻ thù .
Trước gươm nhọn của si ngu ,
Khéo nên kềm chế giặc thù vô minh .

69. 

Khi đánh nhau lỡ làm rơi kiếm ,
Vội vàng ta sẽ lượm nhặt lên .
Mất đi chính niệm hiện tiền ,
Sợ sa hỏa ngục nên liền chính tri .

70. 

Độc khi đã thấm vào thân ,
Do tuần hoàn máu, sát nhanh thân này .
Độc phiền não cũng như đây ,
Làm cho tội ác lấp đầy bản tâm .

71-72. 

Hãy gìn giữ bản tâm chuyên chú ,
Như bưng dầu bị cổ kề gươm .
Hoặc như rắn độc bên lưng .
Xua tan biếng nhác bốc đồng nổi lên .

73-74. 

Mỗi khi lỡ phạm lỗi lầm ,
Hãy nên tự trách, thề không bao giờ .
Mọi thời chính niệm siêng tu ,
Mong thành đạo nghiệp, minh sư phải tầm .

75-76. 

Muốn năng lực để làm thiện sự ,
Không buông lung lời dạy nhớ ghi .
Như bông theo gió nhẹ bay ,
Tâm vui mọi việc khéo hay viên thành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29905)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27184)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21776)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22239)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23618)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20058)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24761)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19004)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24775)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30991)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24001)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27772)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26531)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21341)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23236)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38154)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18809)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19997)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19057)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23184)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22824)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22935)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29598)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18719)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15852)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18868)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19695)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20170)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19963)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22964)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34192)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16432)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16930)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39274)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26091)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20111)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24077)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29156)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22909)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30974)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21020)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26870)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20680)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26272)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19832)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24694)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30053)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20241)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20417)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15153)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15845)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23918)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant