Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6: Nhẫn Nhục

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11970)
Chương 6: Nhẫn Nhục

Chương Sáu
Nhẫn Nhục

1-2.

Thiện hành tích lũy ngàn năm ,
Một giây nóng giận tiêu tan tức thì .
Ác nào sánh kịp sân si .
Hạnh tu nhẫn nhục không gì quý hơn .

3. 

Hận thù nếu cứ ôm giữ mãi ,
Chẳng bao giờ tìm thấy an vui .
Còn đâu hạnh phúc thảnh thơi ,
Bỏ ăn mất ngủ, trọn đời bất an .

4. 

Một người gia chủ nổi sân ,
Có khi bị giết bởi chân tay mình .
Những người ông đã tận tình ,
Giúp cho tài sản an bình bấy lâu .

5. 

Vì nóng giận, bạn bầu thân quyến ,
Đều bỏ ta, chẳng luyến lưu chi ,
Dù ta bố thí tràn trề ,
Tâm sân hận mãi khổ vì cô đơn .

6. 

Kẻ thù giận dữ tạo nên ,
Bao nhiêu đau khổ triền miên đọa đày ,
An vui hiện tại tương lai ,
Đều là quả phúc cho người không sân .

7. 

Được nuôi dưỡng bằng tâm bất mãn ,
Ái biệt ly, ghét chán gặp hoài .
Hận thù cứ thế dằng dai ,
Cuối cùng hủy diệt con người nơi ta .

8-9. 

Hãy nên trừ khử thức ăn ,
Duy trì lớn mạnh hận sân nơi lòng .
Gặp gì cũng cứ như không ,
Giận thì tổn đức điều mong chẳng thành .

10. 

Tại sao phải tự hành tự phạt ,
Với việc còn biện pháp cứu nguy .
Nếu không còn có cách chi ,
Thì đau khổ liệu ích gì cho ai .

11. 

Với bản thân và người bằng hữu ,
Ta cầu mong cho khỏi khổ đau .
Khỏi lời lăng nhục, ác thô ,
Nhưng còn với kẻ oán thù không đâu .

12. 

Đời vui hiếm, lắm sầu đau ,
Nếu không có khổ, ai nào xuất ly .
Tâm ơi dũng cảm lên đi ,
Dù bao đau khổ sá chi lẽ thường .

13. 

Kẻ ngoại giáo theo đường khổ hạnh ,
Chuốc vào thân những cảnh đớn đau .
Nay ta muốn đắc đạo mầu .
Sao không can đảm chịu bao oan tình .

14-15. 

Đói lòng, nóng lạnh, bọ sâu ,
Kẻ quen chịu đựng có đâu than phiền .
Nhờ quen những hại nhỏ nhen ,
Ta dần nhẫn được rối ren khổ nàn .

16. 

Những nỗi khổ trói giam đánh đập ,
Thời tiết hay bệnh tật gây nên .
Đừng nên vì chúng não phiền .
Chỉ càng thêm khổ cho mình ta thôi .

17-18. 

Trước cùng một cảnh máu me ,
Kẻ thì ngất xỉu người thì tiến lên .
Đều do tập quán mà nên ,
Vậy ta hãy tập xem khinh khổ sầu .

19-20. 

Bậc trí dù trải bao gian khó ,
Vẫn giữ tâm ổn cố bình an .
Như người chiến sĩ vinh quang ,
Bị thương vẫn tiến khi chưa tan thù .

21. 

Nhờ đau khổ, hết kiêu căng ,
Chán xa sinh tử, xót thương hữu tình .
Ăn năn tội ác, vui lành ,
Đây bao thiện đức do từng khổ đau .

22. 

Trên đời có biết bao thống khổ ,
Bệnh tật và mưa gió gây nên .
Khổ nào cũng bởi duyên sinh ,
Sao ta chỉ giận hữu tình mà thôi .

23-24. 

Ốm đau cùng những sân si ,
Dù không ai muốn vẫn thì khởi lên .
Cơn sân không tự biết mình ,
Kẻ sân không tính ta nên nổi sùng .

25-26. 

Tội áclỗi lầm đủ thứ ,
Không bỗng dưng vô cớ phát sinh .
Nhân duyên tụ hội mà thành ,
Các duyên cùng quả đã đành vô tâm .

27-31. 

Việc gì cũng bởi duyên sinh ,
Hiểu ra lẽ ấy không nên oán hờn .
Những gì sinh diệt hợp tan ,
Chỉ như huyễn hóa bóng vang thôi mà .

32. 

“ Nếu mọi sự đã là không thực ,
Ai là người chế phục cái chi .
Sao còn nói diệt sân si ” ,
Đời này thật có khổ vì nổi sân .

33. 

Khi ai vô cớ hại mình ,
Hãy nên xem đấy duyên sinh, vô thường .
Duyên kia có hợp có tan ,
Ta nên hoan hỉ dễ dàng bỏ qua .

34. 

Nếu đau khổ do ta tự chọn ,
Thì không ai lựa chọn khổ đau .
Lẽ ra không kẻ khổ sầu ,
Vậy nên tất cả quy vào duyên sinh .

35. 

Có người sơ ý bị thương ,
Vì gai nhọn hoặc dao gươm đâm mình .
Có người ham muốn dục tình ,
Đâm ra sầu khổ hại mình bỏ ăn .

36-37. 

Có người tự ải, tự trầm ,
Tự ăn độc dược do tâm khổ sầu .
Tự mình còn hại mình thay ,
Làm sao không tác hại dây đến người .

38. 

Dù không thể xót thương những kẻ ,
sân si đã giết hại ta .
Đừng nên giận họ ít ra ,
Bởi vì tất cả chỉ là duyên sinh .

39. 

Nếu là một kẻ ngu si ,
Thói ưa tác hại chỉ vì ác tâm .
Nổi sân với họ cũng lầm ,
Như sân ngọn lửa đã làm cháy ta .

40. 

Nếu sự hại phát sinh ngẫu hứng ,
Nơi một người tính vốn hiền lương .
Nổi sân vì họ cũng dường ,
Giận hư không để khói vương bụi mù .

41. 

Khi ta bị đánh bằng cây ,
Ta thường oán ghét con người đánh ta .
Kẻ kia cũng bị sử sai ,
Bởi cơn giận dữ vậy ai đáng thù .

42. 

Có lẽ xưa ta từng tác hại ,
Nên ngày nay đáng phải tổn thương .
Tư duy như vậy nguồn cơn ,
Không còn sân hận đau buồn làm chi .

43. 

Từ hai phía có đau này ,
Bên kia là gậy bên này là thân .
Kẻ mang gậy người mang thân ,
Vậy ta nên phải giận sân kẻ nào .

44. 

Tấm thân thương tích dạng người ,
Chút chi động đến cũng thời đớn đau .
Chính vì ngã ái mê ngu ,
Ta ôm giữ nó vậy giờ trách ai .

45. 

Kẻ ngu không muốn khổ đau ,
Mà sao cứ tạo nhân sầu khổ luôn .
Rồi khi hại đến bản thân ,
Do mình tự tác sao sân hận người .

46. 

Ví như quỷ sứ canh giữ ngục ,
Cùng núi đao rừng kiếm hỏa xa .
Đều do tự nghiệp mà ra ,
Gieo nhân gặt quả, đừng ta thán người .

47-48. 

Kẻ hung ác vì hại ta ,
Mà sa địa ngục chịu bao khổ nàn .
Còn ta nhờ nhẫn không sân ,
Tiêu trừ ác nghiệp phước tăng vô vàn .

49. 

Rốt cuộc ta mới là người hại ,
Kẻ ác nhân có lợi cho ta .
Sao còn sân hận người ta ,
Hỡi tâm thô bạo hồ đồ kia ơi .

50. 

Công phu Nhẫn nhục giúp ta ,
Khỏi sa địa ngục, phần ta đã đành .
Nhưng còn kẻ xấu hại mình ,
Số phần nào sẽ để dành cho y .

51. 

Nếu ta tác hại người gây hấn ,
Tội của y cũng vẫn không tan .
Mà ta lại mất bình an ,
Hạnh tu nhẫn nhục khó làm phải tiêu .

52. 

 Tâm ta đâu có dạng hình ,
Chẳng ai có thể tổn thương tâm này .
Nếu tâm chấp trước thân đây ,
Liền sinh đủ thứ ách tai khốn nàn .

53. 

Những lời thô ác khó nghe ,
Chẳng can hệ đến thịt da thân này .
Hỡi tâm ngu xuẩn kia ơi ,
Vì sao nó lại khiến ngươi khổ sầu .

54. 

Nếu ngươi bảo vì câu nói ấy ,
Làm người ta hết thấy ưa tôi. .
Nhưng dù ai ghét, thương ngươi ,
Có ai thay đổi nghiệp ngươi đâu mà .

55. 

Nếu vì thế mà ngươi mất lợi ,
Hãy nhớ như mây nổi, chiêm bao .
Chết không mang được gì theo ,
Ngoài ra ác nghiệp vẫn đeo bên mình .

56-58.

 Làm điều ác để nuôi thân ,
Cuối cùng cũng chết, sao bằng chết non .
Chiêm bao vui sướng trăm năm ,
Với trong khoảnh khắc tỉnh đồng hư vô .

59. 

Dù kẻ có rất nhiều tài sản ,
Hưởng thú vui sống trọn tuổi trời .
Nhưng khi chết vẫn đơn côi ,
Khác nào bị cướp , nước trôi , cháy nhà .

60. 

Nếu bảo nhờ tiền tài mới sống ,
Mới làm lành lánh dữ tu thân .
Nhưng ngươi vì lợi nổi sân ,
Phước bèn mất hết còn tăng tội nhiều .

61. 

Nếu vì sự sống nhu cầu ,
Chuyên làm ác nghiệp để sau đọa đày .
Một đời sống thật xấu xa ,
Thì đâu có lợi cho ta hay người .

62. 

Nếu sân hận “ Vì lời phỉ báng ,
Khiến người không tin tưởng nơi tôi ” .
Vậy sao không giận một người ,
Khi y cũng phỉ báng người khác kia . 

63. 

Người kia bị mất lòng tin ,
Không can hệ đến tôi nên chẳng phiền .
Lời thô ác bởi đảo điên ,
Sao không nhẫn được lại sinh oán hờn . 

64. 

Nếu nổi sân vì người phá tháp ,
Phá hại chùa , tượng , Pháp cao siêu .
Thật là vô lối xiết bao .
Vì chư Thiện thệ tơ hào chẳng suy .

65. 

Với ai làm hại bạn, thầy ,
Thân bằng quyến thuộc ta hay bậc hiền .
Hãy xem tất cả do duyên ,
Chẳng nên sân hận chuốc thêm đau lòng .

66. 

Thế gian đủ thứ hại mình ,
Do vô tình hoặc hữu tình gây nên .
Sao ta chỉ giận hữu tình ,
Hãy nên nhẫn chịu, chớ sinh oán cừu . 

67-68. 

Kẻ do ngu sitác hại ,
Người do ngu chấp ngã nổi lên .
Đều do oan nghiệt gây nên ,
Vậy ai có lỗi ai không trong này .

69. 

Khi đà thấy biết vậy rồi ,
Hãy nên nỗ lực tiến tu hạnh lành .
Đãi nhau bằng tấm chân tình ,
Từ tâm giải thoát, chớ hành khổ nhau .

70. 

Ví như khi mái nhà bốc lửa ,
Hãy mau tìm cách chữa cháy lan .
Như là rút bớt cỏ tranh ,
Hoặc là những thứ dễ thành mồi ngon .

71. 

Những gì do bởi tâm tham ,
Làm cho lửa giận lan tràn đến nơi .
Đốt kho công đức tơi bời ,
Chóng nên trừ khử kịp thời tâm kia .

72. 

Như kẻ bị trói tay chờ chết ,
Chịu đứt tay để được thoát nguy. .
Ta nhờ các khổ lúc tu ,
Mà may thoát khỏi ngục tù Diêm vương .

73. 

Nếu hiện tại ta không chịu được ,
Những khổ đau nhỏ nhặt hàng ngày .
Sao không sợ thói sân si ,
Cái nhân địa ngục A tỳ gớm ghê .

74. 

tham dục chẳng chán chê ,
Mà ta luống chịu trăm bề khổ đau .
Nhưng chưa được lợi ích nào ,
Cho bản thân hoặc cho bao nhiêu người .

75. 

Cái khổ này thực không đáng kể ,
Nhưng viên thành lợi ích vô biên .
Là trừ khổ hại chúng sinh ,
Vậy khi nhẫn chịu còn nên vui mừng .

76. 

Có người rất đỗi sướng vui ,
Ngợi ca công đức kẻ ngươi đang thù .
Vậy này tâm ý ta ơi ,
Hãy cùng ca ngợi cho vơi khổ sầu .

77. 

Sự tùy hỷ phát sinh như thế ,
Là suối nguồn an lạc thanh cao .
Được chư Phật cùng khen lao ,
Cách hay thu phục biết bao nhiêu người .

78. 

Nếu ngươi bảo “ Nó được khen ,
Nhưng tôi không muốn nó nên anh hào ” . ,
Vậy thì chớ trả thù lao ,
Rồi ngươi sẽ chuốc xiết bao não phiền . 

79. 

Ngươi khoái chí chúc lành kẻ khác ,
Khi họ khen công đức của ngươi .
Nhưng sao ngươi lại không vui ,
Khi nghe khen ngợi kẻ ngươi oán thù .

80. 

 Phát tâm vô thượng bồ đề ,
Là mong tất cả mọi người an vui .
Vậy nay chúng được thảnh thơi ,
Sao ngươi trở lại giận sôi trong lòng .

81. 

Lúc đầu ngươi phát tâm mong ước ,
Cho hữu tình được phước lớn lao .
Cớ sao nay lại khổ sầu ,
Thấy người hưởng chút tơ hào lợi danh .

82. 

Chúng sinh vốn cha mẹ mình ,
Đáng ngươi cấp dưỡng tận tình lo toan .
Họ nay tự lực bình an ,
Đã không mừng lại đem tâm ghét hiềm .

83. 

Không mong chúng được niềm vui nhỏ ,
Nói gì mong giác ngộ toàn vui .
Tâm bồ đề ấy còn đâu ,
Nơi người ganh ghét kẻ giàu hơn ta .

84. 

Quà kia được biếu kẻ thù ,
Hoặc đang còn ở trong kho nhà người .
Thì đâu có phải phần ngươi ,
Không chi can hệ khiến ngươi phải rầu .

85. 

Sao tự phá phước cùng công đức ,
Còn khiến cho kẻ khác mất tin .
Gia tài công đức không gìn ,
Chính ngươi đáng tự giận mình là hơn .

86. 

Ngươi không sợ những ác hành ,
Do mình đã tạo, nên thành kém may .
Thế mà còn nổi sân si ,
Vì ganh tị với phúc người hay sao .

87. 

Giả như kẻ thù ngươi bị hại ,
Có gì đâu trong ấy để vui .
Kẻ kia do đến vận xui ,
Không do ngươi muốn mà người tổn suy .

88. 

Dù người khổ như ngươi mong muốn ,
Thì cũng không đáng để vui mừng .
Không gì là địa ngục nhân ,
Cho bằng cái sự ăn mừng khổ đau .

89. 

Đấy là một cái lưỡi câu ,
Vô minh phiền não buông câu hại người .
Nếu ai mắc phải mồi này ,
Đồng sôi địa ngục khó ngày thoát ra .

90. 

Sự vinh quang cùng lời ca tụng ,
Không khiến cho kẻ nhận bình an .
Không đem trường thọ, kiện khang ,
Không làm hết bệnh đa mang chút nào .

91. 

Nếu rõ biết thế nào thật lợi ,
Thì những lời khen ngợi ích chi .
Còn như muốn đỡ sầu bi ,
Chỉ cần uống rượu trau tria giải buồn .

92. 

Nếu vì muốn được nổi danh ,
tài sản, tính mạng mình mất luôn .
Thì khi chết được tiếng thơm ,
Còn ai ở đó mà buồn với vui .

93. 

Khi sụp đổ lâu đài trên cát ,
Kẻ ngu cùng trẻ nít khóc than .
Cũng như khi mất tiếng tăm ,
Tâm ta điên đảo giống tuồng trẻ ngu .

94. 

Âm thanh đã biết vô thường ,
Thì nghe khen ngợi cũng dường như không .
Nếu vì người ấy vui lòng ,
Trong khi khen ngợi, nên lòng ngươi vui .

95-96. 

Thế thì sao lại không vui ,
Nghe ai khen ngợi kẻ ngươi oán cừu .
Dù khen ngươi hoặc kẻ thù ,
Người khen vui vẻ ngươi nào liên can .

97-98. 

Khi tâm nghĩ “ Ta được ngợi khen ” ,
Thật không thích đáng để sinh vui mừng .
Ngợi khen làm tán loạn tâm ,
Phá nhiều thiện pháp, hết tâm chán lìa .

99. 

Nếu hiện tại có người bôi bác ,
Muốn phá cho tan nát danh ta .
Chính là người đã cứu ta ,
Khỏi sa địa ngục đường tà đấy thôi .

100.

Đã cầu giải thoát luân hồi ,
Thì không trói buộc bởi đời lợi danh .
Sao còn giận tức hữu tình ,
Những người cởi mở cho mình trói trăn .

101. 

 Khi ta đến một nơi nguy khốn ,
Mà bị người đóng cổng chận ngăn .
Ấy là Phật tổ gia ân ,
Sao còn giận tức kẻ ngăn can mình .

102. 

Nếu ngươi bảo kẻ thù tác hại ,
Trở ngại bao công đức của ngươi .
Hạnh tu nhẫn nhục cao vời ,
Sao không nhân đấy tu ngay một lần .

103. 

 Nếu ta có lắm ưu phiền ,
Nên không chịu nổi kẻ hiềm khích ta .
Ấy mình tự chướng hạnh tu ,
Bao nhân phước đức nhẫn là tối cao .

104. 

 Không tổn hại, nhẫn nào sinh khởi ,
Nhẫn kẻ thù công đức phát sinh .
Vậy thù địch chính ân nhân ,
Cho ta tu phước đâu ngăn ngại gì .

105. 

Khi cho mà gặp kẻ xin ,
Thì sao gọi đấy chướng duyên cho mình .
Cũng vô lý như bảo rằng ,
Giới sư trở ngại cho mình xuất gia .

106. 

Thế gian đầy dẫy người xin ,
Cho ta bố thí gieo duyên phước lành .
Nhưng thù nghịch lại hiếm khan ,
Ta không sinh sự, ai màng hại ta .

107. 

 Thù nghịch cũng như là báu vật ,
Ta chẳng tìm mà được đến tay .
Giúp ta giác ngộ là đây ,
Hãy nên ưa mến kẻ hay hại mình .

108. 

Muốn tu nhẫn nhục cho thành ,
Kẻ thù hợp tác với mình mới xong .
Vậy bao phước đức thành công ,
Hãy nên phụng hiến kẻ từng hại ta .

109. 

Nếu bảo “ Kẻ thù đâu muốn giúp ,
Cho ta thành quả phúc thanh cao ” .
Vậy thì thánh pháp cao siêu ,
Cũng đâu muốn giúp nương theo tu hành .

110. 

 Nếu bảo : “ Thù chỉ chuyên tác hại ,
Đâu muốn gì ích lợi cho tôi ” .
Hại kèm thiện ý cứu đời ,
Thì như y sĩ, đâu thời nhẫn kham .

111. 

Nhờ một kẻ sân si tột độ ,
Nhẫn nhục thành kiên cố nơi ta .
Kẻ thù nhân tốt cho ta ,
Nên cung dưỡng họ như là Pháp thân .

112. 

Đức Mâu ni có dạy rằng ,
Chúng sinh với Phật cũng ngang phước điền .
Muốn thành lục độ vô biên ,
Hãy gieo giống phước lên trên ruộng này .

113. 

Kể bao đối tượng ta nương ,
Để tu chứng đạo , chúng sinh Phật đồng. .
Chỉ tôn Phật chẳng chúng sinh ,
Là lời chẳng có ở trong kinh nào .

114. 

Xét trên trí đức cao sâu ,
Dĩ nhiên Phật, chúng sinh nào giống nhau .
Chúng sinh giúp chứng đạo mầu ,
Nên đồng với Phật, ấy do quả lành .

115-116. 

Cúng dường tất cả chúng sinh ,
Với tâm từ mẫn, vô biên phước tồn .
Vì là nhân của quý tôn ,
Cũng như kính Phật Thế tôn vô lường .

117. 

Hằng sa công đức nan lương ,
Đồng quy nơi một kim thân Phật ngài .
Một công đức nhỏ trong đây ,
Đủ cho ba cõi quay về cúng dâng .

118. 

Nhờ chúng sinh Phật thành chính đạo ,
Nên hữu tình có tạo phần công .
Vì hai đức ấy tương đương ,
Cho nên thực đáng cúng dường chúng sinh .

119. 

Như lai đấng nói lời chân ,
Ban vui tất cả thiết thân hữu tình .
Cách nào báo Phật thâm ân ,
Cho bằng giúp chúng sinh hằng an vui .

120. 

Phật từng xả thân vào hỏa ngục ,
Cứu chúng sinh lăn lóc tam đồ .
Nhớ ân đức Phật sâu xa ,
Con nguyền tu hạnh lợi tha báo đền .

121. 

Phật xưa không tiếc thân mình ,
Đem cho tất cả hữu tình an vui .
Ngu si kiêu mạn là tôi ,
Nếu không làm kẻ tôi đòi chúng sinh .

122. 

Phật vui khi chúng sinh an ,
Chúng sinh tổn hại Phật tan nát lòng .
Hữu tình sướng, Phật an tâm ,
Làm cho chúng khổ tổn thương Phật ngài .

123. 

Như thân thể quấn trong lửa rực ,
Dù ai cho ngũ dục không màng .
Phật đà không thể hân hoan ,
Nếu ta tổn hại chúng sinh con Ngài .

124-125. 

Khi xưa con hại hữu tình ,
Khiến đau lòng Phật, nay xin sám chừa .
Từ nay con nguyện dứt trừ ,
Dù ai chà đạp xin thề nhẫn kham .

126. 

Phật với tâm đại bi vô ngại ,
Trong hữu tình thấy tánh Như lai .
Sao không kính trọng tánh này ,
Ở trong tất cả muôn loài chúng sinh .

127. 

Hãy làm cho chúng sinh vui ,
Thì ta sẽ khiến Như lai vui lòng .
Lại còn lợi lạc bản thân ,
Bao nhiêu đau khổ xóa tan trên đời .

128. 

Ví như có kẻ làm quan lớn ,
Hại dân lành, tán tận lương tâm .
Nhưng người dũng sĩ khôn ngoan ,
Dù dư sức cũng chẳng ham báo thù .

129. 

Vì quan ấy chẳng đơn cô ,
Sau ông còn có ô dù lớn lao : .
Phật đà bi mẫn gồm thâu ,
Và bao ngục tốt, lẽ nào coi khinh .

130-131. 

Hãy làm cho chúng sinh hoan hỉ ,
Như bề tôi phụng thị ác vương .
Ta không đọa bởi vua sân ,
Mà sa địa ngục nếu sân hữu tình .

132. 

Và dù bạo chúa hân hoan ,
Cũng không thể biếu niết bàn cho ta .
Quả do đức tính nhân hòa ,
Ban vui cứu khổ mọi nhà chúng sinh .

133. 

Kết quả làm hữu tình vui sướng ,
Là đời này được hưởng vinh quang .
Đời sau thoát khỏi khổ nàn ,
Hãy luôn ghi nhớ lời vàng chớ quên .

134. 

Trong vòng sinh tử liên miên ,
Sống lâu vô bệnh dung nhan tuyệt trần .
Tiếng thơm nhờ đức vô sân ,
Và bao hạnh phúc sánh bằng Luân vương.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29905)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27184)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21776)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22241)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23621)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20433)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20059)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24764)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19007)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24784)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30993)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24005)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27775)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26544)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21345)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23239)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38160)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18809)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19998)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19058)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23184)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23896)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22826)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22937)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29599)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20650)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18719)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15853)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18868)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19696)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20171)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19963)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18131)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22969)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34194)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16432)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16933)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39275)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26095)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20113)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18865)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24077)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29157)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22910)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30975)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21021)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26872)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20683)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26272)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23348)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19833)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24696)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30053)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20242)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20419)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15161)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15846)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23920)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant