Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương I: Những Lợi Lạc Của Bồ Đề Tâm

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 13424)
Chương I: Những Lợi Lạc Của Bồ Đề Tâm

Chương I
Những Lợi Lạc 
Của Bồ Đề Tâm

1 - 4 .

Kính lễ Phật - Pháp thân thường tại ,
Kính lễ hiền thánh trải mười phương .
Con nay ghi lại lời vàng ,
Luật nghi Phật ch
ế cho hàng xuất gia .
Vụng về dệt mấy vần thơ ,
Chỉ mong mình khỏi phai mờ tín tâm .
Phúc thay ta được thân nhân loại ,
Hãy dùng thân tự lợi , lợi tha .
Dịp này nếu để luống qua ,
Thì khi chết đến biết là về đâu .

5. 

Như làn chớp loáng qua mau ,
Chiếu soi vạn vật giữa mầu đêm đen .
Thế gian nhờ đấng Chí tôn ,
Pháp lành hi hữu vô ngần hiện ra .

6. 

Căn lành ở trong ta thường yếu ,
Ác nghiệp thì công hiệu xiết bao .
Bồ đề tâm chẳng nương theo ,
Không sao thắng nổi quá nhiều chướng duyên .

7. 

Ba đời chư Phật chứng minh ,
Bồ đề tâm ấy thực lành lợi thay .
Hữu tình vô lượng nhờ đây ,
Mà mau được hạnh phúc tày non cao .

8. 

Ai muốn dứt khổ sầu cõi tạm ,
Muốn được nhiều vô hạn niềm vui .
Muốn mong cứu giúp mọi người ,
Đừng bao giờ để buông lơi tâm này .

9. 

Chúng sinh trong cõi luân hồi ,
Bồ đề tâm ấy tạm thời khởi lên ,
Tức thì tất cả nhân thiên ,
Gọi là con Phật rất nên nể vì .

10. 

Như hóa chất để xi vàng khối ,
Bồ đề tâm chuyển đổi thân dơ .
Sinh từ máu huyết mẹ cha ,
Ra thân Phật thật một tòa kim cương .

11. 

Đạo sư trí tuệ vô ngần ,
Xem tôn quý nhất là tâm bồ đề .
Ai người muốn thoát sông mê ,
Hãy nên giữ vững bồ đề tâm kia .

12. 

Hạnh lành khác chỉ như cây chuối ,
Cho quả xong tàn lụi héo hon .
Cây Bồ đề vẫn xanh luôn ,
Không ngưng kết trái đơm bông cõi đời .

13. 

Như người phạm tội tơi bời ,
Nhờ nương dũng sĩ tức thời được an .
Kẻ cầu thoát khỏi nguy nan ,
Sao không sớm liệu nương tâm bồ đề .

14. 

Như ngọn lửa ở thời kiếp hoại ,
Trong phút giây thiêu cháy tội khiên .
Công đức tâm ấy vô biên ,
Được ngài Di lặc dạy khuyên Thiện Tài .

15. 

Tóm thâu hai loại sau đây ,
Cũng từ một họ Bồ đề tâm ta .
Một là Tâm nguyện tỉnh ra ,
Hai là Tâm hạnh gắng mà làm theo .

16. 

Bậc hiền trí hiểu sâu hai thứ ,
Chỗ khác nhau giữa muốn và làm .
Như du hành mới phát tâm ,
Khác xa với việc dấn thân trên đường .

17.

Trong vòng sinh tử nhiễu nhương ,
Nguyện Bồ đề đủ đem đường yên vui .
Nhưng kho công đức bời bời ,
Bồ đề hạnh nơi người phát tâm .

18. 

Và với kẻ trong tâm nắm vững ,
Hạnh bồ đề thề chẳng thối lui .
Mong sao cứu vớt muôn loài ,
Chúng sinh thoát khỏi cảnh đời trầm luân .

19.

Kể từ khi phát đại tâm ,
Dù khi đang ngủ hoặc không nghĩ gì .
Thiện căn tiếp tục tràn trề ,
Như hư không nọ chẳng hề sút sa .

20.

Đức Phật vì xót xa kẻ dại ,
Ham dừng chân ở tại Tiểu thừa .
Bản kinh Diệu Tý hỏi thưa ,
Nói nhiều công đức kẻ vừa phát tâm .

21. 

Dù khi thấy một chúng sinh ,
Gặp cơn đau nhức không đành làm ngơ .
Tâm nhiêu ích ấy còn dư ,
Phúc lành cho kẻ tâm từ bủa lan .

22. 

Huống hồ kẻ phát tâm quảng đại ,
Mong xua tan vạn loại khổ sầu 
Mong đem hạnh phúc thanh cao ,
Cho vô lượng chúng sinh nào trầm luân .

23. 

Có ai , cha mẹ , chư thiên ,
Phạm thiên cõi dục ai nguyền phát tâm .
Lớn lao quảng đại nào bằng ,
Bồ đề tâm nguyện của hàng sơ cơ ? .

24. 

Người ta chẳng bao giờ mơ tưởng ,
Tâm bồ đề dù hướng bản thân .
Huống là hướng đến tha nhân ,
Mà mong phát nổi chân tâm thượng thừa .

 25. 

Chỉ vì một bản thân ta ,
Còn chưa phát được huống là vì ai .
Phát tâm lợi ích muôn loài ,
Là tâm tôn quý muôn đời hiếm khan .

26. 

Như ngọc báu trần gian không khác ,
Bồ đề tâm an lạc cho đời .
Thuốc mầu đau khổ nhẹ vơi ,
Cỗi nguồn hạnh phúc không lời nào đo .

27. 

Nghĩ lành cho chúng sinh thôi ,
Còn hơn lễ lạy Như Lai pháp tòa .
Nói gì công đức bao la ,
Mang cho tất cả muôn nhà niềm vui .

28. 

Ai cũng muốn xa rời khổ não ,
Tại sao mà khổ não càng tăng .
Muốn mình hạnh phúc an khương ,
Ngu si tự phá phước dường cừu nhân .

29. 

Với người không chút bình an ,
Trong tâm chất chứa miên man khổ sầu .
Bồ đề tâm ngọc báu mầu ,
Xua tan thống khổ rạt rào vui dâng . 

30. 

Lại xóa tan mê lầm bao nỗi ,
Hạnh lành nào sánh với tâm đây .
Bạn hiền nhân thế nào tày ,
Bồ đề công đức lành thay ai bì .

31. 

Kẻ nào đền đáp ân nghì ,
Còn nên khen ngợi chỉ vì nhớ ơn .
Huống gì Bồ tát gia ân ,
Với niềm vui suớng chẳng cần chờ xin .

32. 

Thế gian kính hiền nhân những kẻ ,
Một đôi lần san sẻ thức ăn .
Cho người thiếu thốn cơ bần ,
Thỏa cơn bỉ cực chút phần nào thôi .

33.

 Huống chi Bồ tát suốt đời ,
Đem nguồn phúc lạc Như Lai trọn lành .
Trút cho vô lượng quần sanh ,
Nhờ đây thỏa được muôn nghìn ước ao .

34. 

Phật từng dạy kẻ nào nghĩ quấy ,
Về một người như vậy ân nhân .
Sẽ sa địa ngục muôn lần ,
Bao nhiêu nghĩ bấy nhiêu phân đọa đày .

35. 

Một lời ca tụng lành thay ,
Gặt nên quả phúc gấp hai ba lần .
Hiền nhân dù gặp khó khăn ,
Không sinh lầm lỗi còn tăng hạnh lành .

36. 

Ai người phát đại tâm trân quý ,
Cho tôi xin kính lễ chân thành .
Cho vui đến kẻ hại mình ,
Tôi xin quy kỉnh suối lành Từ Bi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29901)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27182)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21773)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22237)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23614)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20432)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20056)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21951)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24760)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18995)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24772)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30988)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23996)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27766)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26530)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21330)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23233)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38144)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18807)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18439)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19991)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19054)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23176)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23894)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22822)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22929)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29592)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20648)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18715)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15850)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18865)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19691)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20161)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19958)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18130)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22953)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34186)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16426)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16924)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39270)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26084)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20105)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18864)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24070)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29155)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22906)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30970)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21015)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26862)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20679)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26269)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23347)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19825)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24691)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30049)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20232)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20411)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15147)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15842)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23912)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant