Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 9: Trí Tuệ

02 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11909)
Chương 9: Trí Tuệ

Chương Chín
Trí Tuệ

( Suốt chương này, những câu " trong ngoặc kép ” là luận điệu những học thuyết trong và ngoài Phật giáo phản bác hoặc chất vấn Trung quán . Tiếp theotrả lời của luận chủ theo lập trường Trung quán . Xem phần dịch văn xuôi để rõ chi tiết ) .

1. 

Bao điều Phật dạy kể trên .
Cốt làm trí tuệ phát sinh nơi lòng .

Muốn ra khỏi biển trầm luân ,
Cần sinh tuệ giác Tính không sáng ngời .

2. 

Lẽ phải đời gọi là tục đế ,
Thắng nghĩachân lý siêu phàm .
Không do phân biệt nơi tâm ,
Còn phân biệt vẫn trong vòng trầm luân .

3. 

Thế gian những kẻ ngu phàm ,
quan điểm khác với hàng thiền gia .
Những gì tục đế nói ra , 
Bị hành giả phái Du già bác ngay .

4a.

Thiền gia cũng khác nhau tuệ lực ,
Càng lên cao thấy bực dưới sai .
Như màn ảo thuật hiển bày 
Thế tình như huyễn với người tu tâm .

4b. 

Nếu ai hỏi vị ấy rằng ,
“ Đã như huyễn hóa thì cần tu chi ” . 
Muốn thành Phật quả chân như ,
Nên dùng huyễn pháp đi tu ấy mà .

5. 

Việc gì cũng xem là có thật ,
Người thế gian phân biệt linh tinh .
Thiền gia xem tợ huyễn hình ,
Đây là đầu mối luận tranh hai nhà .

6. 

Cảnh gì hiện trước mắt ta ,
Làm nên tục đế, gọi là giả danh .
Chỉ do điên đảo mà thành ,
Như dơ bảo sạch không nên tin vào .

7a. 

Muốn dẫn đạo cho người thế tục ,
Phật dạy rằng các pháp vô thường .
Thật thì các pháp vốn không ,
Có đâu để diệt trong từng sát na .

7b. 

Vậy nên hiểu vô thường tục đế ,
Không phải là thắng nghĩa sâu xa .
“ Nói tồn tại chỉ sát na ,
Phải chăng cũng trái tục gia lối nhìn ” .

8a. 

Không lầm cái thấy nhà thiền ,
Cho rằng các pháp chỉ bền sát na .
Chấp thường thế tục vốn ưa ,
Lối nhìn thiền giả tạm là thật chân .

8b. 

Cũng như cái thấy thân bất tịnh ,
Với người đời nhất định trái tai .
Nhưng mà nó vẫn không sai ,
Vậy nên chưa chắc ngược đời phi chân .

9a. 

“ Nếu vạn pháp đã là không thực ,
Thì cúng dường công đức nào sinh ” . 
Phật như huyễn đức huyễn sanh ,
Cũng như Phật thật đức thành thật chân .

9b.

 “ Nếu là như huyễn chúng sinh ,
Vậy sau khi chết tái sanh thế nào ” .

10a.

 Huyễn duyên còn tụ bao lâu ,
Huyễn hình vẫn cứ thi nhau diễn tuồng .

10b. 

Như ảo thuật hữu tình không khác ,
Đều khởi lên do các duyên sinh .
Đâu vì yếu tố thời gian ,
Lâu dài tương đốithành thật chân ? .

11. 

Khi người huyễn sát sinh, bố thí ,
vô tâm chẳng tội phước chi .
Chúng sinh với huyễn tâm kia ,
Sanh như huyễn tội như là huyễn công .

12. 

Chú thuật không thể sinh tâm huyễn ,
Tâm không từ huyễn thuật sinh ra .
Nhân duyên đủ thứ hợp hòa ,
Phát sinh các dạng vật và chúng sinh .

13. 

Không bao giờ có một nhân ,
Sinh ra tất cả mọi thành quả kia .
“ Nếu cho vạn pháp chân như ,
Chỉ trên tục đế bày ra luân hồi ” .

14. 

“ Phật còn có thể luân hồi ,
Thì Bồ tát hạnh còn ai tu hành ” . 
Huyễn duyên nếu vẫn vận hành ,
Huyễn hình không diệt hữu tình theo đây .

15. 

Phật đã chấm dứt duyên sinh tử ,
Nên dù trên tục đế không sinh .
“ Nếu cho vọng thức không thành ,
Lấy gì duyên với cảnh tình huyễn hư ” .

16. 

Theo ông ngoại cảnh huyễn hư ,
Thì đâu còn có cảnh gì để duyên .
“ Cảnh kia do thức mà nên ,
Thức này ngó lại cảnh mình biến ra ” .

17. 

Nếu huyễn cảnh chính là tâm thức ,
Thì lấy gì thấy được cái chi .
Phật Như lai đấng chở che ,
Dạy rằng tâm chẳng bao giờ thấy tâm .

18. 

Như gươm không tự cắt mình ,
Tâm không thể tự thấy mình được đâu .
Ví như ánh sáng đèn dầu ,
Tự mình chiếu sáng, tâm nào khác chi ” .

19a. 

Ánh sáng chẳng phải đâu tự chiếu ,
Và tối không thể hiểu tự che .
( Vì khi đèn chiếu vật kia ,
Nó không từng bị bóng gì che lên ) .

19b. 

Trả lời : Ví dụ gương xanh ,
Khi gương chiếu một vật xanh hiện hình ,
Nhưng còn ánh ngọc màu xanh ,
Thì không nương những bóng hình nọ kia ” .

20a. 

“ Cũng tương tự có hai loại thức ,
Có và không nương các vật ngoài ” .
Bác rằng : Ví dụ ấy sai ,
Xanh lưu ly ví tâm soi chiếu mình .

20b. 

lưu ly tự tính xanh ,
Không do duyên khác để thành màu kia . 

21a. 

Chính vì có thức liễu tri ,
Nên hay biết được đèn thì chiếu soi .

21b. 

Nhưng cái thức tự soi chính nó ,
Thì do đâu sáng tỏ điều này .
Vì theo trong thắng nghĩa đây ,
Tự - tha thức chẳng mảy may thực nào .

22. 

Không tâm nào để ngắm tâm ,
Nên dù tự chiếu hay không bất thành .
Khác nào nói gái vô sinh ,
Có con đẹp xấu đâu thành nghĩa chi .

23. 

Nếu khôngtự chứng phần ,
Làm sao nhớ được những tâm qua rồi ” . 
Do tương quan với cảnh ngoài ,
Mà tâm nhớ lại lần hồi xưa sau .

23b. 

Như con gấu nhức đau mình mẩy ,
Khi giật mình tỉnh dậy đầu xuân .
Suy ra biết chuột cắn nhầm ,
Trong khi an giấc suốt trong đông dài .

24. 

“ Như người biết được tha tâm ,
Cho nên cũng biết tự tâm của mình ” .
Có người mắt được bùa linh ,
Cái gì cũng thấy mắt mình thì không .

25. 

“ Nếu tự tha thức không lập được ,
Thì kiến văn tri giác đều không ” . .
Những gì thấy biết nghe trông ,
Không nên chấp thực nguyên nhân khổ sầu .

26.

 “ Huyễn duyên không ở ngoài tâm ,
Cũng không là một với dòng tâm kia ” . 
Làm sao có một pháp chi ,
Không ngoài tâm cũng lại vừa phi tâm .

27. 

Theo Duy thức cảnh ngoài phi thực ,
Trung quán cho tâm thức huyễn hư .
Luân hồi nương thật tâm tư,
Nếu không tất cả đồng là hư vô ” .

28. 

Nếu sinh tử phải nương thật pháp ,
Thì làm sao có tác dụng chi .
Tâm thành đơn độc không hai ,
Vì không có những pháp ngoài trợ duyên .

29. 

Nếu tâm lìa cảnh tự tồn ,
Chúng sinh tất cả cũng đồng Như lai. .
Vậy thì Duy thức tông kia ,
Cuối cùng đâu có ích chi lập thành .

30. 

“ Dù biết vạn phápnhư huyễn ,
Dứt làm sao tham luyến si sân .
Như phù thủy tạo mỹ nhân ,
Rồi sinh say đắm cô nàng thì sao ” .

31. 

Huyễn sư đối những gì thấy biết ,
Chưa bao giờ tận diệt tham sân .
Đã quen nhận giả làm chân ,
Nên khi thấy huyễn mỹ nhân phát thèm .

32. 

Nhờ quen tu tập Tánh không ,
Không xem các pháp thật chân chút nào .
Bản thân Không tánh có đâu ,
Cuối cùng đoạn nốt cả bầu chấp không .

33. 

Không thấy có pháp nào chắc thực ,
Thực hữu không còn được đặt ra .
Thì Không chẳng bận tâm ta ,
Như con thạch nữ đâu mà chết đi .

34. 

Khi không - có hết khởi lên ,
Trong tâm vắng lặng một miền bao la .
Không còn duyên pháp gần, xa ,
Chứng nên cảnh giới rất là tịch nhiên .

35. 

Như ngọc ma ni và cây ước ,
vô tâm thỏa được ước mong .
Sắc thân Phật hiện nhân gian ,
Do bồ tát nguyện cùng tâm hữu tình .

36. 

Như Kim sí điểu tháp linh ,
Vẫn còn năng lực chữa lành vết thương .
Nhờ linh chú bà la môn ,
Gia trì lên đấy thuở còn xa xưa .

37. 

Cũng như thế do Bồ tát hạnh ,
Vô lượng thời tạo pháp thân thiêng .
Nên dù Phật đã tịch viên ,
Vẫn còn lợi lạc vô biên hữu tình .

38. 

Cúng dường tháp Phật vô tình .
Thì sao có được chút thành quả chi ” . 
Phật dù nhập diệt hay chưa ,
Cúng dường công đức chẳng hề khác nhau .

39. 

Trên tục đế hay theo thắng nghĩa ,
Quả cúng dường một thể như như .
Phật phi thực quả huyễn hư ,
Cúng dường Phật thật quả thì thật chân .

40.

 “ Cần chi phải thấy Tính không ,
Chỉ cần kiến đế thoát vòng trầm luân ” .
Trong kinh Bát nhã dạy rằng ,
Bồ đề muốn chứng phải cần tuệ Không .

41. 

Nếu đại thừa không do Phật thuyết ,
Tiểu thừa kinh sao biết chính tông .
“ Hai ta xác nhận một lòng ” .
Khi ông chưa nhận chắc không đúng nào .

42.

 “ Lại còn hệ phái truyền trao ” ,
Đại thừa cũng vậy khác nào các ông .
Hai nhà xác nhận thành chân ,
Vệ đà ngoại điển cũng cần tin sao .

43. 

Đại thừa kinh bị nhiều tranh cãi ” , 
Kinh tiểu thừa chẳng phải an thân .
Bị bài bác bởi ngoài trong ,
Sao không nhân đấy bác luôn tiểu thừa .

44. 

Nếu kinh nào nhập Ba tàng ,
Các ông thừa nhận lời vàng Thế tôn .
Đại thừa tuyên thuyết chính tông ,
Cũng gồm giới định tuệ đồng như nhau .

45. 

Nếu vì không hiểu sâu Bát nhã ,
Phủ nhận luôn tất cả đại thừa .
Hãy vì kinh giống tiểu thừa ,
Cũng nên xem tất đồng là Phật ngôn .

46. 

“ Nếu là kinh Phật chính tông ,
Đại A la hán sao không tỏ tường ” . 
Kinh này nghĩa lý cao thâm ,
Đâu vì nan giải gạt phăng đại thừa .

47. 

Nói “ Giáo lý dành cho la hán ” , 
Nhưng khó thành nếu chẳng chứng Không .
Khi còn duyên pháp trong tâm ,
Khó mà an trú niết bàn tịnh thanh .

48.

 “ Mặc dù chẳng hiểu Tính không ,
Quán vô thường đủ thoát vòng trần ai ” .
Công năng nghiệp cũ còn hoài ,
Nên la hán vẫn chưa ngoài khổ đau .

49.

 “ A la hán không còn ái thủ ,
Quyết định không còn thọ thân sau ” .
Vô minhbất nhiễm ô ,
Vẫn còn tái diễn lắm trò khổ đau .

50. 

Do duyên cảm thọ ái sanh ,
Vị kia chỉ đoạn hiện hành ái thôi .
Tâm còn chấp thật vài nơi ,
Thọ nằm trong đó luân hồi khó ra .

51. 

Nếu tâm thức lìa xa Không quán ,
Phiền não dù tạm lắng lại sanh ,
( Như khi xuất định vô tâm ) ,
Vậy mong dứt khổ tuệ Không phải tìm .

52. 

Khi thiền quán về chân không ,
Hết tham vui sợ khổ trong luân hồi .
Từ bi trải khắp muôn nơi ,
Ở trong sinh tử độ người đang mê .

53. 

Chớ nên vì không thông nghĩa lý ,
vội vàng bác bẻ Tính không .
Hãy nên như lý tu Không ,
Dứt trừ nghi hoặc thoát vòng trầm luân .

54.

 Tính không phá được tối tăm ,
Do phiền não với mê lầm gây nên .
Muốn mau thành bậc đại hiền ,
Sao không dứt khoát tu liền Tính không .

55. 

“ Quán tính Không làm tôi sợ hãi ” , 
Chấp thật chân mới phải đáng kinh .
Vì do chấp có khổ sinh ,
Thấy Không lắng dịu vô minh não phiền .

56. 

Nếu còn có chút nào thật ngã ,
Tất nhiên còn sợ hãi nọ kia .
Nhưng vì thật chẳng có ta ,
Thì ai ở đấy để mà sợ run .

57. 

Răng tóc móng đều không phải ngã ,
Ngã cũng không là máu huyết, xương .
Không là nước mũi, bọt, đàm ,
Không là thịt nước mật vàng mật xanh .

58. 

Ngã không là phổi hay gan ,
Mồ hôi hay mỡ lại càng không ta .
Không là nội tạng trong da ,
Không là phân tiểu thối tha khó nhìn .

59. 

Thịt da cũng chẳng phải mình ,
Ấm nồng khí lực thật tình không ta .
Trong thân lỗ hổng hà sa ,
Thức tâm sáu loại đều là huyễn hư .

60. 

Nếu thức về âm thanh thường tại ,
Thì lúc nào cũng phải có nghe .
Nhưng khi không đối tượng nghe ,
Làm sao gọi được đấy là thức thanh .

61.

 Nếu không thức tâm mà cũng biết ,
Khúc cây hay phân biệt giác tri .
Nên không đối tượng sở tri ,
Quyết là không có năng tri được nào .

62. 

Nếu bảo khi không thanh, biết sắc .
Sao lại không nghe được âm thanh .
“ Vì thanh lúc ấy chẳng gần ” ,
Thế thì nhĩ thức cũng bằng hư vô .

63. 

Cái tâm biết được âm thanh ,
Chuyển ra biết sắc sao thành thường chân .
“ Như người làm cả cha, con ” ,
Vậy là đối đãi chỉ còn giả danh .

64. 

Như Số luận chủ trương Ba đức ,
Cái làm nên thực chất trường tồn .
Làm sao cha lại là con ,
Đã thường biết sắc chuyển thành biết thanh .

65. 

Nếu cho ví dụ đóng tuồng ,
Thì tâm thức ấy vô thường không chân .
“ Thức tuy khác dạng thể đồng ” ,
Đây điều Số luận chưa tầng nói ra .

66. 

“ Nếu đa dạng trở thành phi thực ,
Các dạng kia thực chất là chi .
Phải là cái ý thức kia ” ,
Chúng sinh như thế đồng thì một tâm .

67. 

Ngã có tâm cùng thần bất động ,
Cũng thành ra một giống trường tồn. .
Những tâm nghe thấy . . . đều lầm ,
Làm sao cái giả cọng đồng thực chân .

68. 

Cái vô tri chỉ như bình nước ,
Thì có đâu thành được ngã thường .
Thức tâm chờ vật mới thành ,
Thì vô tri đã tan tành còn đâu .

69. 

Nếu cái ngã thường hằng bất biến ,
Dính gì tâm chuyển biến li ti .
Ngã là bất biến vô tri ,
Hư không với ngã có gì khác nhau .

70.

 “ Nếu khôngthật ngã nào ,
Luật nhân quả ấy làm sao vận hành .
Con người tạo nghiệp qua nhanh ,
Còn ai chịu quả do mình đã gây ” .

71.

Con người tạo nghiệp đời nay ,
Với người thọ quả tương lai bất đồng .
Tôi cùng công nhận như ông ,
Thì còn chi nữa mà hòng cãi tranh .

71b-72a . 

“ Nhưng với nhân quả trong hiện thế ,
Cùng một căn thân ấy thì sao ” .
Trong nhân chẳng thấy quả nào ,
Cha con cùng lúc không sao sinh thành .

72b. 

“ Thế lời Phật dạy trong kinh ,
Ai làm nấy chịu ông đành bỏ qua .
Muốn ngăn chận kẻ ác tà ,
Đừng quên nhân quả Phật đà dạy răn ” .

73. 

Kỳ thực xét trên phần chân đế ,
Tâm vị lai quá khứ đều không .
Thì đâu có ngã hằng tồn ,
Tâm trong hiện tại diệt vong còn gì .

74. 

Hãy nhìn cây chuối thân kia ,
Lột ra từng bẹ còn gì nữa đâu .
Nếu đem quán tuệ tầm cầu ,
Không sao thấy được ngã nào thật chân .

75. 

“ Nếu hữu tình thật không hiện hữu ,
Khởi bi tâm để cứu kẻ nào ” . 
Do mê si khéo bày trò ,
Giả vờ độ chúng chứng mau bồ đề .

76. 

“ Không người, ai chứng quả đây ” , 
Do tâm si ám đặt bày thế thôi . 
Muốn trừ thống khổ mang vui ,
Bày ra huyễn quả huyễn người tu chân .

77.

 Chỉ nên bỏ mê lầm về ngã ,
Làm tăng thêm tất cả khổ nhân .
Cách trừ ngã chấp tuyệt luân ,
vô ngã quán triệt dần khổ đau .

78a. 

Trước hãy xét cho sâu thân thể ,
Xem cái gì đáng kể là thân .
Dưới từ hai gót bàn chân ,
Đùi và vế chẳng phải thân chút gì .

78b - 79

Bụng lưng cùng ngực với vai ,
Xương sườn, tay, nách, cổ, đầu, ruột gan .
Bao nhiêu phủ tạng bên trong ,
Phần nào tên ấy thân đồng hư vô .

80. 

Nếu thân ở khắp mỗi phần ,
Thì toàn thân ở mỗi phần hay sao .
Còn thân thể thật ở đâu ,
Cái thân riêng chẳng phần nào tương can .

81. 

Nếu toàn thể ở mỗi phần ,
Bao nhiêu bộ phận, phải ngần ấy thân..
Thành ra vô số thể thân ,
Điều này phi lý chẳng cần đắn đo .

82. 

Cái thân không ở ngoài trong ,
Của từng mỗi một thân phần nọ kia .
Mỗi phần thân thể thật gì ,
Làm sao có một thân ly các phần .

83. 

Vậy nên biết cái thân không thật ,
Vì mê mờ các vật trong thân .
Tạo nên tâm chấp thể thân ,
Như lầm đống gạch xếp thành dáng ai .

84. 

Đá kia vẫn bị trông lầm ,
Khi bao điều kiện gây lầm chưa tan .
Khi còn tụ hội nhân duyên ,
Vẫn còn tay mặt giả danh thân người .

85. 

Như thân thể đã không thật có ,
Tay chân kia nào có thật chi .
Khi càng phân tích chẻ chia ,
Chỉ là ngón đốt li ti nhiều phần .

86. 

Chẻ chia đến mức tột cùng ,
Chỉ là những hạt không phần không phương .
Còn đâu tông tích cái thân ,
Dù trông như thật hư không khác gì .

87. 

Ai phân tích kỹ thân này ,
Lại còn tham luyến hình hài huyễn hư .
Thân dường như thể mộng mơ ,
Làm sao phân biệt trẻ già gái trai .

88. 

Kế đến xét khổ này nếu thật ,
Không bao giờ khổ tận cam lai .
Lạc không thực có mảy may ,
Vì khi đang khổ chẳng ai thích gì .

89. 

Nếu cho vì khổ đau cường liệt ,
Nên chẳng còn cảm giác lạc kia .
Nhưng chưa trải nghiệm cái gì ,
Sao thành lạc thọ được vì vô can .

90. 

“ Trong đại lạc khổ phần vi tế ,
Khổ nhỏ này cũng kể loại vui ” .
Cần chi phân tích lôi thôi ,
Có đâu cảm thọ đồng thời cả hai .

91. 

Nói “ Không khổ thọ hiện bày ,
Nơi tâm của một con người đang vui ” .
Đây là chấp trước lầm sai ,
Cái chưa hiển hiện sao bày đặt tên .

92. 

Vậy phải nên tu liền quán tuệ ,
Thấy Tính không đối trị sai lầm .
Không gì hiện hữu thật chân ,
Đây là mảnh đất dưỡng sanh nhà thiền .

93. 

Nếu có giữa căn trần khoảng cách ,
Thì làm sao có xúc sinh ra .
Nếu căn trần cũng một nhà ,
Cả hai là một ai mà gặp ai .

94. 

Hạt căn và hạt thuộc trần ,
Bằng nhau nên chẳng thể nằm trong nhau .
Không vào nhau chẳng gặp nhau ,
Đã không gặp gỡ còn đâu xúc gì .

95. 

Nếu cho chúng gặp nhau một phía ,
Tức thành ra hạt có nhiều phương .
Thì còn đâu hạt vi trần ,
Vốn là nhỏ nhất không phân được nào .

96. 

Với thức vô sắc kia cũng vậy ,
xúc trần vô lý lắm thay .
Nếu căn trần thức sum vầy ,
Phát sinh nhận biết thể nầy không chân .

97. 

Như trên xúc ấy làm nhân ,
Đã là không thực, thọ chân thật gì .
Nhọc công cầu lạc mà chi ,
Khổ nào tổn hại ai kia được nào .

98. 

Tìm tông tích không người cảm thọ ,
Lại không luôn cảm thọ khổ, vui .
Khi đà thấy được đến nơi ,
Quả kia là ái diệt ngay tức thì .

99. 

Những gì ta thấy hoặc sờ ,
Đều không có thực, mộng mơ huyễn hình .
Tâm sinh cảm thọ liền sinh ,
Nên tâm thọ chẳng tách riêng được nào .

100. 

Có thể nhớ thọ gì về trước ,
Hoặc cầu mong cảm giác về sau .
Bản thân kinh nghiệm có đâu ,
Một đầu đã quá một đầu chưa sinh .

101.

 Người cảm thọ đã không có thật ,
Nên thọ này cũng chẳng thật đâu .
Cớ sao huyễn hóa mặc dầu ,
Làm cho điêu đứng cả bầu thân tâm .

102. 

Ý thức không ở nơi căn ,
Cũng không nơi vật hay miền trung gian. .
Đã không ngoài cũng không trong ,
Hoặc nơi nào khác đều không thể thành .

103. 

Không phải thân, cùng thân không khác ,
Không hiệp thân chẳng tách rời thân .
Hoàn toàn không chút thật chân ,
Chúng sinh tánh vốn niết bàn từ xưa .

104. 

Nếu lìa cảnh vẫn còn có thức ,
Thì thức nương theo vật gì sanh .
Cả hai thức, cảnh đồng sanh ,
Thì sao thức ấy phải cần gặp duyên .

105a. 

Nếu thức xuất hiện sau đối tượng ,
Duyên cảnh gì để có thức sinh .
Vì khi thức ấy khởi lên ,
Tượng kia đã diệt thức thành trơ vơ .

105b-106a . 

Vậy nên không thể cho rằng ,
“ Sự sinh các pháp thật chân chút nào ” .
Nếu khôngtục đế đâu ,
Làm sao kiến lập hai đầu tục chân .

106b. 

“ Nếu tục đế lập vì kẻ khác ,
Đang mê lầm các pháp thật chân .
Thì làm sao để chúng sanh .
Từ đau khổ đến niết bàn an vui ” .
Dù cho có một số người ,
kinh nghiệm được niềm vui niết bàn .
Thì không khỏi kẻ nghi nan 
Vẫn còn tương đối trong vòng diệt sinh” .
Thật là có sự Vô sinh ,
Vì không liễu đạt, cho thành ngoa ngôn .
Nhưng không vì kẻ mê lầm ,
Niết bàn chân thật trở thành hư vô .

107. 

Phân biệt ấy do người chưa thoát ,
Khi ngộ rằng các pháp phi chân .
Thì đây đích thực niết bàn ,
Không còn kiến lập tục chân làm gì .

108a. 

“ Tâm phân biệt cùng là đối tượng ,
Đều tương quan vay mượn lẫn nhau .
Cảnh kia nếu chẳng thật đâu ,
Cái tâm quán sát truy cầu thật chăng ” .

108b. 

Đây là tục đế thế gian ,
Đúng theo chân đế tâm không thật gì .

109. 

Khi Không tính đã tìm ra ,
Không cần tâm nữa xét tra tâm này .

110. 

Đối tượng tâm hiển bày chẳng thật ,
Thì tâm kia mất chỗ náu nương .
Cảnh không tâm cũng không sanh ,
Chính là tự tính niết bàn an vui .

111. 

Thuyết cho rằng cảnh tâm đều thật ,
Lập luận này xét thật khó tin .
Cảnh kia do thức mà nên ,
Thức này thành lập do duyên cái gì .

112.

 Thức mà do cảnh lập ra ,
Cảnh thì ai lập thế là vần quanh .
Cảnh tâm đối đãi mà nên ,
Cả hai cần biết chẳng chân thật gì .

113. 

Không con đâu gọi là cha ,
Không cha con ấy vậy là ai sinh .
Cha con đối đãi mà nên ,
Cũng như tâm cảnh chẳng thành thật chân .

114. 

“ Như mầm từ hạt giống sanh ,
Do mầm biết có hạt nằm dưới kia .
Do tâm từ cảnh sinh ra ,
Mà ta biết được cảnh kia thật tồn ” .

115. 

Do tâm khác với hạt mầm ,
Cho nên biết hạt từ mầm nọ kia .
Nhưng khi nhận thức cảnh gì ,
Thì do đâu biết có tâm thức này .

116.

 “ Mọi sự không do gì sanh cả ” , 
Nhưng thế gian thấy có nhân sinh .
Như là rễ - cọng - hoa sen ,
Có ra do những nhân duyên hợp thành .

117. 

“ Do gì sinh sai biệt nhân ” ,
Ấy do nhân trước không từng giống nhau.
“ Từ nhân sao có quả sinh ” ,
Đấy do năng lực vận hành từ xưa .

118. 

“ Trời Tự tại sinh ra tất cả ” ,
Xin hỏi ông trời đó là chi .
“ Ngài là đất , nước , hư không ” , 
Chỉ là tứ đại chứ thần thánh chi .

119. 

Đất nước vốn vô thường nhiều thứ ,
Bị dẫm lên dơ uế không thiêng .
Không sao gọi được thần linh ,
Đặt tên là Tự tại thiên thêm rầu .

120. 

Hư không cũng chẳng là Tự tại ,
Ngã cũng không tự tại chút nào .
“ Khó tư nghì về đấng tối cao ” , 
Thế thì nói đến ông đâu ích gì .

121a. 

“ Những gì trời ấy sản sinh ,
Cái ta , đại chủng bản thân của ngài ” . 
Đã xem trường cửu trước đây ,
Sao giờ nói những thứ này được sinh .

121b. 

Trời cũng không thể sanh tâm thức ,
Duyên cảnh mà các thức liền sanh .

122a-122b

Và do tích thiện ác hành ,
Từ vô thủy kiếp nay thành thức tâm .
Nếu nhân đã là không khởi thủy ,
Quả sao mà khởi thủy được sinh .

123a-123b

Sao không sáng tạo liên miên ,
Đã là Tự tại không duyên pháp nào .
“ Quả liên tục không phát sinh .
Nhân tuy trường cửu sinh cần có duyên ” .
Đã là đấng Tự tại thiên ,
Tất nhiên không thể cần duyên tác thành .

124. 

Nếu nhiều duyên họp sinh ra quả ,
Thì duyên kia chính đã là nhân .
Các duyên nhóm họp thì sanh ,
Không duyên tụ hội bất thành vật chi .

125. 

Nếu quả sinh không do thiên dục ,
Tức là do năng lực khác sanh .
Nếu do trời muốn mới thành ,
Tức trời còn thuộc ý hành đổi thay .

126. 

Thắng luận nói hạt nhân trường cửu ,
Đã bác không thực hữu vi trần. .
Luận sư Số luận chấp rằng ,
Chúng sinh do một thường hằng chủ ông .

127. 

“ Lạc, ưu và ám bình quân ,
Là ba tánh đức chủ nhân trị vì .
Quân bình ba tánh lung lay ,
Tạo nên vũ trụ muôn loài chúng sinh ” .

128. 

Ba tính bất đồng trong một thể .
Chủ trương này phi lý lắm thay ,
Dù cho có những tính này ,
Mỗi nguyên tố phải trưng bày thành ba .

129. 

Nếu không ba tính làm nhân ,
Quả là thanh sắc chẳng từng thực chi .
Lại như vật chất vải y ,
Vô tâm nên cũng không gì lạc, ưu .

130 a.

 “ Y phục có tính như ba đức ,
Vì sinh ra lạc thọ vân vân ” .
Như trên phân biệt rõ rành ,
Không gì thật hữu: thể thân , áo quần .

130b.

 Lại theo Số luận chủ trương ,
Do nhân ba đức phát sanh áo quần .
Nhưng nhân gian cũng thấy rằng ,
Khổ vui sanh vải thật không đúng nào .

131. 

Nếu vải mà sanh ra lạc khổ ,
Không vải thì lạc khổ không sanh .
Cho nên nói lạc thường hằng ,
Tuyệt nhiên không phải thật chân chút nào .

132. 

Lạc ( ba tính ) nếu là hằng có ,
Sao không vui khi khổ phát sinh .
“ Vì khi ấy lạc tế tinh ” , 
Khi thô khi tế sao thành thường nhân .

133. 

Vậy ba tính ấy vô thường ,
Khi vầy khi khác luôn luôn đổi dời .
Sao không thừa nhận do đây ,
Hữu vi tất cả pháp này biến thiên .

134. 

Lạc đã có khi thô khi tế ,
Hiển nhiên là lạc ấy vô thường .
Trong nhân đã chẳng có chi ,
Tuyệt nhiên đâu có quả gì được sinh .

135.

Dù ông có chấp nhận rằng ,
“ Quả tuy chẳng hiện ẩn tàng trong nhân ” .
Quả mà sẵn trú trong nhân ,
Ăn vào thực phẩm cũng đồng ăn dơ .

136 a. 

Lại sao ông chẳng mua bông vải ,
Thay vì mua vải dệt thành y .
Thế gian vì vẫn còn mê ,
Nên không thấy những vật kia thể đồng ” .

136b. 

Nhưng tông chủ Số luận tông ,
Cũng mang y phục từ bông vải thành .

137a. 

Quả mà hiện hữu trong nhân ,
Thì sao người tục chẳng đồng tôn sư 

137b. 

“ Kẻ phàm tục khi chưa đắc quả ,
Kiến thức chưa có giá trị gì ” .
Những gì do họ thấy ra ,
Vậy thì cũng chẳng phải là chính chân .

138. 

“ Mọi tri thức đều sai lầm ,
Thì Không tính ấy chẳng lầm hay sao. ,
Đương nhiên nó chẳng thật nào ,
Không chân thật ích gì đâu tu hành ” .

139. 

Khi chưa thấy sai lầm chấp thật ,
Thì tính không phi thực khó bàn .
Nhưng khi vừa thấy giả không ,
Cái tâm biết huyễn chẳng cần nữa chi .

140. 

Như người nằm mộng chết con ,
Nhớ ra vốn chẳng có con cái gì .
Giả tâm biết phi hữu này ,
Khử trừ được ý tưởng về hữu kia .

141. 

Khi phân tích để làm sáng tỏ ,
Không vật gì không có nguyên nhân .
Không hề có độc một nhân ,
Hay là tập hợp các nhân khởi đầu.

142. 

Mọi pháp không do từ đâu đến ,
Không trú và diệt chẳng đi đâu .
Do tâm mê chấp nặng sâu ,
Thấy ra có thật mặc dầu huyễn hư .

143. 

Hãy tra xét dần ra manh mối ,
Sự vật do duyên hội mà thành .
Cùng bao cảnh vật huyễn sanh ,
Chúng từ đâu đến thực tình đi đâu .

144. 

Nhân duyên tu hội hiện hình ,
Nhân duyên tan rã thấy hình chi đâu .
Đời hư huyễn tợ chiêm bao ,
Cảnh duyên sinh ấy khác nào bóng gương .

145. 

Nếu cho các pháp là thật có ,
Còn cần chi tìm rõ nguyên nhân .
Nhược bằng các pháp vốn không ,
Nhọc công tìm kiếm nguyên nhân làm gì .

146. 

Dù do ức vạn nguyên nhân ,
Hữu không thể biến từ không được nào .
Vô đà không thể thành chi ,
Mất vô chẳng thể lấy gì hữu sinh .

147. 

Nếu vào lúc vô, không có hữu ,
Thì lúc nào hữu mới có nên .
Khi mà cái hữu chưa sinh ,
Đương nhiên chưa thoát khỏi vành hư vô .

148. 

Khi chưa tách khỏi hư vô ,
Hữu không thể có thời cơ hiện hình .
Cũng không thể trở thành vô ,
Hóa ra vừa hữu vừa vô một mình .

149. 

Thế nên tánh diệt bất thành ,
Tánh sinh cũng chẳng có thành được đâu. .
Chúng sinh ngay tự buổi đầu ,
Chẳng ai có diệt ai nào sinh ra .

150. 

Chúng sinh có hiện dù sao ,
Chỉ như cây chuối chiêm bao mơ màng .
Nên sinh tử với niết bàn ,
Cũng đồng một thể bước đường không hai .

151. 

Trong lý tánh xưa nay không vật ,
Thì có chi để được, mất đâu .
Có ai cung kính cúi đầu ,
Có ai khinh miệt ai đâu mà bàn .

152. 

Từ đâu vui khổ sinh ra ,
Có chi để khổ, chi mà vui chăng .
Tìm đâu cho thấy được rằng ,
Ai người tham ái ái tham cái gì .

153. 

Xét sâu trên thế giới này ,
Có ai sắp chết ai đang sinh thành .
Đã sanh và sẽ thọ sanh ,
Thật đâu thân hữu gia đình bà con .

154. 

Hỡi những ai tra tầm sự thật ,
Nhận cho rằng muôn vật huyễn hư .
Chỉ vì ham muốn riêng tư ,
Mãi hoài tranh chấp ghét thù thương thân .

155. 

Vì mưu hạnh phúc bản thân ,
Phát sinh lo lắng đấu tranh nhọc nhằn .
Có khi cốt nhục tương tàn ,
Gieo nhân ác chịu trăm ngàn khổ đau .

156. 

Dù gặp được sang giàu lạc thú ,
Chết rơi vào đọa xứ gian nan .

157. 

Trong ba cõi thực bất an ,
Bị nhiều trói buộc lẽ chân khó tìm .

158. 

Trải bao xiết vô vàn thống thổ ,
Lực thiện hành thì quá nhỏ nhoi .
Thời gian thấm thoắt như thoi ,
Thoáng qua già chết mất toi kiếp người .

159. 

Chỉ vì lo giữ mạng này ,
Chịu bao đói khát đọa đày tấm thân .
Một đời lo chuyện ngủ ăn ,
Bị người tác hại ác nhân bạn bầu .

160. 

Một đời vô nghĩa chóng qua ,
Không từng thấy vạn phápTính không. .
Đời nay có cách gì chăng ,
Diệt trừ tán loạn trong tâm ý này .

161. 

Thế lực của quỷ ma rất mạnh ,
Khiến sa vào bất hạnh lớn lao .
Đường tà nẻo ác dấn sâu ,
Đâu là chính đạo không sao tỏ tường .

62. 

Khó thay được lại thân người ,
Khó thay gặp Phật ra đời độ sanh .
Khó thay đoạn dứt vô minh ,
Thương thay thống khổ liên miên hữu tình.

163. 

Mây trôi bèo giạt lênh đênh ,
Ngu si chẳng ý thức mình khổ đau .

164. 

Kẻ thì nước lửa lao đầu ,
Hành thân hoại thể tự kiêu hạnh tà .

165. 

Sống như chẳng bao giờ già chết ,
Theo sắc thanh mê mệt đảo điên .
Tử thần đoạt mạng trước tiên ,
Sau còn ác đạo triền miên đọa đày .

166. 

Bao giờ phước như mây tích tụ ,
Giáng cơn mưa pháp vũ cam lồ .
Lửa hừng phiền não tan mau ,
Chúng sinh an lạc đạo mầu chứng nên .

167. 

Bao giờ tâm được rỗng rang ,
Hằng duyên Không tính, không duyên pháp nào .
Chúng sinh chấp hữu sầu đau ,
Tính không diệu pháp giải bao khổ nàn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14881)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11951)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12846)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10443)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12167)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15406)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11206)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10650)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12576)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16534)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14441)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11881)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14908)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12137)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16986)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11672)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12817)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11453)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12185)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52448)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15595)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14085)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11531)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13279)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12897)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13330)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 18029)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12550)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12753)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54339)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14516)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 10018)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13901)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58256)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14612)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20282)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13893)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15510)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17616)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13383)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11984)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13568)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14731)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12584)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12209)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12142)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13366)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12634)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13723)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13402)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25754)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12244)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14655)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11924)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42184)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28461)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38942)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14820)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12804)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16352)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant