Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7779)
Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng (48)

Bấy giờ đức Thế tôn bảo thọ thần của bồ đề đại thọ, rằng thiện nữ thiên, thiện nữ nên biết cái lý do bồ tát Diệu tràng mộng thấy trống hoàng kim xuất âm thanh lớn, ca tụng công đức Như laidiệu pháp sám hối. Như lai sẽ nói cho các người về lý do ấy. Các người hãy nghe kyլ hãy khéo nghĩ khéo nhớ. Quá khứ có một đế vương tên Kim long chủ, thường đem hoa sen làm ví dụ mà ca tụng chư vị Như lai. Đức Thế tôn liền thuật lại cho đại hội nghe những lời ca tụng này.

(1) Chư Phật quá khứ 
vị lai hiện tại
ở trong thế giới 
khắp cả mười phương
con nay chí thành 
cúi đầu kính lạy, 
nhất tâm ca tụng 
các đấng Tối thắng
(2) Đấng Đại mâu ni 
tối thượng thanh tịnh
ánh sáng thân thể 
rực như hoàng kim
Trong các thứ tiếng 
tiếng Ngài tối thượng
như tiếng Đại phạn 
như sấm rền vang. 
(3) Tóc Ngài thì như 
ong chúa đen huyền, 
đường nét uốn xoay 
ngời lên xanh biếc. 
Răng đều và sít 
trắng như tuyết, ngọc, 
rất bằng và thẳng 
và ngời sáng lên. 
(4) Mắt trong không gợn, 
cực đẹp, uy nghiêm
to lớn tựa như 
cánh hoa sen xanh
Tướng lưỡi rộng dài, 
cùng cực nhu nhuyến
đỏ như sen hồng 
từ nước trồi lên. 
(5) Giữa mày thường có 
ánh sáng bạch hào 
uốn xoay chiều phải 
với màu pha lê
Lông mày dài, mịn, 
sáng như trăng mới, 
ngời lên lóng lánh 
như thân ong chúa. 
(6) Mũi cao, dài, thẳng, 
tựa như đĩnh vàng, 
sạch sẽ, tươi sáng, 
không thiếu vẻ đẹp; 
mọi thứ hơi thơm 
trong thế giới này, 
mũi này ngửi thấy 
là biết ở đâu. 
(7) Thân màu hoàng kim 
siêu tuyệt bậc nhất, 
mỗi một đầu lông 
đẹp đẽ đồng đẳng, 
xanh biếc, mềm mại, 
uốn theo chiều phải, 
tinh tế ánh ngời 
khó có gì bằng. 
(8) Thân ấy mới sinh 
đã có ánh sáng, 
trải ra khắp cả 
thế giới mười phương
trừ được khổ não 
ba cõi chúng sinh
làm cho tất cả 
đều được yên vui. 
(9) Bất kể địa ngục
bàng sinh, ngạ quỉ
tô la, chư thiên
cùng với nhân loại
làm cho loại trừ 
các dạng khổ não
thường xuyên hưởng thụ 
cái vui tự nhiên
(10) Ánh sáng thân ấy 
thường chiếu khắp cả, 
tựa như vàng ròng 
tinh tế bậc nhất. 
Mặt thì sáng ngời 
tựa như trăng tròn. 
Môi thì đỏ tươi 
như trái tần bà
(11) Bước đi uy nghiêm 
như sư tử đi. 
Mình sáng in như 
mặt trời mới mọc 
Cánh tay thì dài, 
đứng quá đầu gối, 
thường buông thẳng xuống 
như nhánh sa la
(12) Vầng ánh sáng tròn 
một tầm, tỏa chiếu, 
rực rỡ tựa như 
trăm ngàn mặt trời
trải đến khắp cả 
quốc độ của Phật, 
tùy kẻ hữu duyên 
mà được thức tỉnh
(13) Ánh sáng trong suốt 
không chi sánh bằng
trải ra khắp cả 
trăm ngàn thế giới
và khắp mười phương
không gì trở ngại, 
mọi sự mờ tối 
đều tan biến cả. 
(14) Từ quang Thiện thệ 
ban cho yên vui, 
màu sắc trong suốt 
như núi vàng ròng
ánh sáng trải khắp 
trăm ngàn quốc độ
những ai gặp được 
cùng siêu thoát cả. 
(15) Vô biên thắng phước 
hoàn thành thân Phật, 
tất cả công đức 
trang sức Phật thân
vượt quá ba cõi
độc xưng Thế tôn
hơn hết thế giới 
thành bậc Vô đẳng
(16) Chư vị Thế tôn 
thuộc thì quá khứ 
nhiều như vi trần 
của cả đại địa
chư vị Thế tôn 
vị lại hiện tại 
cũng bằng vi trần 
của cả đại địa
(17) Đem thân miệng ý 
cùng cực chân thành 
con xin kính lạy 
tam thế Thế tôn
ca tụng biển cả 
công đức vô biên
hiến cúng đủ loại 
những hương và hoa. 
(18) Giả sử miệng con 
có cả ngàn lưỡi, 
ca tụng Thế tôn 
trong vô lượng kiếp
thì công đức Ngài 
bất tư nghị
tối thắng, cực sâu, 
vẫn khó diễn tả
(19) Giả sử lưỡi con 
có cả trăm ngàn 
khen một công đức 
của một đức Phật 
cũng vẫn khó được 
một phần chút ít, 
huống chi vô biên 
công đức chư Phật. 
(20) Giả sử đại địa 
cho đến chư thiên 
đến trời Hữu đảnh 
toàn là biển nước, 
đầu lông nhỏ giọt 
đếm biết hết cả, 
một đức một Phật 
cũng khó lường biết. 
(21) Đem thân miệng ý 
cực kỳ chân thành 
mà con lễ bái 
cùng với tán dương 
công đức vô biên 
của chư Phật đà
sự lễ tán ấy 
được bao thắng phước 
quả báo siêu việt
con xin hồi hướng 
cho cả chúng sinh 
chóng thành Phật đà. 

(22) Kim long chủ vương 
tán thán Phật rồi, 
tâm càng thâm thiết 
phát ra đại nguyện
nguyện con sau này 
trong thì vị lai 
sinh ra đến mấy 
đời kiếp đi nữa, 
(23) thường xuyên mộng thấy 
trống hoàng kim lớn, 
được nghe âm thanh 
diệu pháp sám hối
Công đức tán Phật 
thì như liên hoa
nguyện chứng Vô sinh 
thành bậc Chánh giác
(24) Thế tôn xuất thế 
lâu thay một lần
trăm ngàn đời kiếp 
cũng khó gặp được. 
Nên đêm thường mộng 
nghe tiếng trống vàng, 
ngày thì theo đó 
tu hành sám hối
(25) Con nguyện viên tu 
sáu ba la mật
cứu vớt chúng sinh 
ra khỏi biển khổ, 
sau con mới thành 
đấng Vô thượng giác
với một tịnh độ 
bất khả tư nghị
(26) Con đem trống vàng 
hiến lên chư Phật, 
tán thán chư Phật 
công đức chân thật
nguyện nhờ việc này 
sẽ gặp Thích tôn 
thọ ký cho con 
nối ngôi Pháp vương
(27) Kim long, Kim quang
là con của con, 
quá khứ đã làm 
bậc thiện tri thức
nguyện rằng đời đời 
vẫn sinh nhà con, 
cùng con tiếp nhận 
thọ ký bồ đề
(28) Với những chúng sinh 
không ai cứu giúp, 
trường kỳ luân hồi 
lãnh chịu khổ não
nguyện con đời sau 
làm nơi nương tựa 
cho họ thường được 
yên vui thích thú. 
(29) Cái khổ ba cõi 
con nguyện diệt trừ
làm cho tùy tâm 
ở nơi an lạc
Nguyện những đời sau 
tu hành bồ đề 
cũng như quá khứ 
các vị thành Phật
(30) Nguyện cầu cái phước 
trống vàng sám hối 
làm khô biển khổ 
loại trừ nghiệp chướng
nghiệp chướng hoặc chướng 
tan biến cả rồi, 
nguyện con chóng đạt 
quả báo trong sáng
(31) Biển cả phước trí 
giới hạn vô biên
trong suốt rất mực 
và sâu không cùng. 
Nguyện con thực hiện 
biển phước trí ấy, 
mau chóng thành đạt 
vô thượng bồ đề
(32) Sức mạnh sám hối 
của trống vàng này 
sẽ thể hiện được 
ánh sáng phước đức
Thể hiện ánh sáng 
nhiệm mầu như vậy, 
rồi đem trí quang 
chiếu soi khắp cả. 
(33) Nguyện cầu cho con 
thân thể, ánh sáng, 
phước đức, trí tuệ
đều như chư Phật, 
trong mọi thế giới 
độc xưng Thế tôn
uy lực tự tại 
không ai sánh bằng
(34) Nguyện cầu vượt qua 
biển khổ hữu lậu
nguyện thường du ngoạn 
biển vui vô vi
biển phước hiện tại 
nguyện thường dẫy đầy, 
biển trí tương lai 
nguyện được viên mãn
(35) Nguyện cõi của con 
siêu việt ba cõi
phẩm chất thù thắng 
không có số lượng, 
những ai liên hệ 
cùng sinh cõi ấy, 
cùng mau thành đạt 
trí giác thanh tịnh

(36) Diệu tràng nên biết 
Kim long chủ vương 
đã phát nguyện ấy 
bản thân ông. 
(37) Và hai người con 
Kim long, Kim quang 
thì nay chính là 
Ngân tướng, Ngân quang, 
sẽ cùng tiếp nhận 
Như lai thọ ký
Toàn thể đại hội nghe những lời này của đức Thế tôn, thì ai cũng phát tâm bồ đề, nguyện rằng hiện tạivị lai thường y theo những lời ấy mà tu hành diệu pháp sám hối.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29882)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27167)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21762)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20421)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24737)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24734)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30969)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26504)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21297)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23210)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38117)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19949)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19034)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23141)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22903)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29560)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15844)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18845)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19645)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20147)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19948)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34159)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16409)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39227)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18843)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24049)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30939)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20666)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26247)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30021)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20213)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15138)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15824)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23866)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant