Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 8471)
Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì (90)

Bấy giờ đức Thế tôn bảo Đại cát tường thiên nữ, rằng nếu có thiện nam hay thiện nữ đức tin trong sáng nào muốn đem cúng phẩm bất tư nghị phụng hiến chư vị Như lai trong ba thì gian, lại muốn thấu hiểu hành xứ (91) rất sâu của các Ngài, thì người ấy quyết định phải hết lòng tùy bản kinh vua này ở đâu hãy diễn giảng quảng bá cho chúng sinh chỗ ấy, dầu chỗ ấy là thành thị, xóm làng hay trong chằm núi. Còn những người nghe pháp thì phải bỏ tâm tưởng tán loạn mà tập trung thính giác, chuyên chú tâm trí. Bấy giờ đức Thế tôn liền nói những chỉnh cú sau đây cho chư thiênđại hội.

(1) Đối với chư Như lai 
muốn hiến cúng siêu việt
lại muốn hiểu lĩnh vực 
sâu xa của các Ngài, 
(2) thì thấy ai diễn giảng 
kinh Ánh sáng hoàng kim
hãy đích thân đi đến 
những chỗ diễn giảng ấy. 
(3) Kinh ấy khó nghĩ bàn, 
phát sinh mọi phước đức
trong biển khổ rộng lớn 
cứu vớt bao chúng sinh
(4) Như lai thấy kinh này 
đầu giữa cuối đều hay, 
đều sâu không lường nổi, 
thí dụ cũng không bằng. 
(5) Giả như cát sông Hằng
bụi đại địa, nước biển, 
đá núi cả không gian
không ví được ít phần. 
(6) Muốn hội nhập pháp tánh 
hãy lắng nghe kinh này: 
nơi chùa tháp pháp tánh 
mới khéo được hội nhập. 
(7) Trong chùa tháp như vậy 
Thấy ta, đấng Mâu ni
với ý đẹp lời hay 
quảng diễn kinh vua này. 
(8) Thấy thế nên nhiều kiếp 
số lượng khó nghĩ bàn, 
thường ở trong trời người 
hưởng được vui siêu việt
(9) Lắng nghe kinh vua này 
hãy tư duy như vầy
ta được một hợp thể 
phước đức bất tư nghị
(10) Giả sử khối lửa lớn 
trải dài trăm thiện na, 
nhưng vì nghe kinh này 
bước qua không do dự
(11) Đến chỗ giảng kinh này 
được nghe kinh này rồi, 
ác nghiệp loại trừ hết, 
ác mộng cũng loại trừ. 
(12) Ác tinh và biến quái 
cổ đạo cùng tà mị, 
lúc nghe được kinh này 
thì rời xa tất cả. 
(13) Hãy trang trí tòa cao 
đẹp sạch tựa hoa sen
pháp sư ngồi trên đó 
trông như chúa đại dương
(14) An tọa pháp tòa rồi 
giảng kinh sâu xa này, 
lại sao chép tụng trì 
giải thích ý nghĩa 
(15) Pháp sư rời tòa ấy 
đi đến các nơi khác
thì nơi tòa cao ấy 
tưởng thấy bao thần biến
(16) Hoặc thấy hình pháp sư 
còn ngồi trên tòa cao. 
Hoặc thấy hình Như lai 
cùng chư vị Bồ tát
(17) Hoặc tưởng đức Phổ hiền, 
hoặc tưởng Diệu cát tường
hoặc thấy Từ thị tôn, 
ngồi trên tòa cao ấy. 
(18) Hoặc thấy tướng kỳ diệu 
hay thấy hình chư thiên
và mới thấy như vậy 
thoạt cái đã biến mất. 
(19) Thấy những điềm lành ấy 
làm gì cũng vừa ý
phước đức viên mãn cả: 
Như lai nói như vậy. 
(20) Siêu việtdanh tiếng
hủy diệt mọi phiền não
giặc ngoại xâm trừ được, 
chiến đấu thường đắc thắng
(21) Ác mộng toàn không có 
độc tố cũng tiêu tan
ác nghiệp thân miệng ý 
kinh lực cũng diệt được. 
(22) Trong đại lục Thiệm bộ 
danh tiếng tràn đầy cả, 
bao nhiêu những oán thù 
rời xa được hết thảy. 
(23) Thù địch đến xâm lăng 
nghe danh cũng triệt thoái
không động đến vũ khí, 
đối trận sinh hoan hỷ
(24) Phạn vương và Đế thích
bốn Thiên vương hộ thế
Kim cương dược xoa
Chánh liễu tri đại tướng
(25) long vương hồ Vô nhiệt
cùng với Sa yết la, 
nhạc thần Khẩn na la
Tô la kim sí chủ, 
(26) Đại biện tài thiên nữ
Đại cát tường thiên nữ, 
chư thiên đứng đầu này 
thống lãnh cả thiên chúng
(27) thường hiến cúng Như lai 
Pháp bảo siêu việt
thường sinh tâm hoan hỷ 
tôn kính kinh vua này. 
(28) Thiên chúng như thế này 
đều cùng nhau suy nghĩ
quan sát người làm phước 
rồi cùng nói như vầy
(29) Hãy coi những người ấy 
là bậc đại phước đức
thiện căn tinh tiến lực 
sẽ sinh lên Thiên giới
(30) Để nghe kinh vua này, 
người ấy kính đến đây, 
hiến cúng chùa tháp Pháp 
vì lòng tôn trọng Pháp. 
(31) Người ấy thương chúng sinh 
mà làm đại lợi ích
và là đồ chứa đựng 
kinh vua sâu xa này. 
(32) Nhập được pháp môn này 
là nhập được pháp tánh
nên với kinh Hoàng kim 
hãy hết lòng lắng nghe. 
(33) Người ấy đã hiến cúng 
vô số chư Như lai
do thiện căn lực ấy 
mới được nghe kinh này. 
(34) Do vậy các thiên chủ
thiên nữ Đại biện tài
thiên nữ Đại cát tường
cùng bốn vị Thiên vương
(35) và vô số Dược xoa 
dũng mãnh đầy thần lực
phân nhau ra bốn phía 
thường đến hộ vệ cho. 
(36) Nhật nguyệtĐế thích
chư thần nước gió lửa, 
Phệ sốt nộ, Diêm la
Đại biện tài vân vân
(37) Các Thiên vương hộ thế 
dũng liệt, đủ uy thần
hộ vệ người trì kinh 
ngày đêm không rời xa. 
(38) Đại lực dược xoa vương, 
Na la diên, Tự tại
hâm tám thần Dược xoa, 
Chánh liễu tri cầm đầu, 
(39) và trăm ngàn Dược xoa 
sức lớn lại thần thông
thường đến chỗ hiểm nguy 
ủng hộ người trì kinh. 
(40) Kim cương dược xoa vương 
với năm trăm tùy thuộc
cùng chư đại bồ tát 
cũng thường đến hộ trì
(41) Bảo vương dược xoa chủ, 
cùng với Mãn hiền vương, 
Khoáng dã, Kim tì la
Tân độ la, Hoàng sắc (92) . 
(42) Mỗi dược xoa vương này 
cùng năm trăm tùy thuộc
thấy ai nghe kinh vua 
thì cùng đến hộ vệ
(43) Thái quân, Kiền thát bà, 
Vi vương, Thường chiến thắng, 
Châu cảnh và Thanh cảnh
và Bột lý sa vương, 
(44) Đại tối thắng, Đại hắc, 
Tô bạt noa kê xá, 
Bán chi ca, Dương túc, 
cùng với Đại bà dà, 
(45) Tiểu cừ và Hộ pháp
cọng với Di hầu vương
Châm mao và Nhật chi, 
Bảo phát, cùng đến giúp. 
(46) Đại cừ, Nặc câu la
Chiên đàn, Dục trung thắng, 
Xá la với Tuyết sơn
cùng với Sa đa sơn (93) , 
(47) đều có thần thông lớn 
hùng mãnh đủ đại lực
thấy người trì kinh ấy, 
cùng đến mà hộ vệ
(48) A na bà đáp đa, 
cùng với Sa yết ra, 
Mục chân, Ê La diệp, 
Nan đà, Nan đà nhỏ (94) , 
(49) rồng trong trăm ngàn rồng, 
đủ thần thông uy đức
cùng giúp người trì kinh, 
ngày đêm không rời bỏ. 
(50) Bà trĩ, La hầu la
Tì ma chất đa la
Mẫu chỉ chiêm bát ra, 
Đại kiên và Hoan hỷ (95) . 
(51) Và tô la vương khác 
cùng vô số thiên chúng
có sức lớn, mạnh mẽ, 
đều đến giữ người ấy. 
(52) Mẫu thần Ha lị để, 
Dược xoa chúng năm trăm, 
người trì kinh thức dậy 
là đến hộ vệ cho. 
(53) Chiên trà, Chiên trà lị, 
Chiên trĩ nữ dược xoa
Côn đế, Câu tra xỉ, 
Hút tinh chất chúng sinh (96) , 
(54) thần chúng như thế ấy 
sức lớn, có thần thông
giữ gìn người trì kinh 
ngày đêm thường không rời. 
(55) Vô lượng các thiên nữ 
Biện tài thiên cầm đầu, 
bao nhiêu là tùy thuộc 
Cát tường thiên lãnh đạo
(56) Nữ thần đại địa này, 
thần trái hạt vườn rừng, 
thần cây, thần sông rào, 
thần chùa tháp, vân vân
(57) chư thiên thần như vậy 
lòng sinh đại hoan hỷ
cùng đến mà hộ vệ 
người đọc tụng kinh vua. 
(58) Thấy ai trì kinh vua, 
tăng thọ lượng sắc lực, 
tăng uy quang phước đức
tăng tướng tốt trang nghiêm
(59) mà tinh tú biến quái 
xúc phạm đến người ấy, 
thì đến nỗi ác mộng 
cũng làm cho tan biến. 
(60) Nữ thần đại địa này 
Kiên cố đầy uy thế, 
bằng năng lực pháp vị 
của kinh vua Hoàng kim
(61) làm cho màu mỡ đất 
vốn thấm xuống rất sâu, 
nay lại được thấm lên 
tươi nhuần cho đại địa
(62) Đại địa dày sáu mươi 
tám ức du thiện na, 
từ ngoại biên kim cương 
màu đất vẫn thấm lên. 
(63) Lại do nghe kinh vua 
được khối đại công đức
làm cho chính chư thiên 
cũng nhờ được ích lợi
(64) làm cho chư thiên ấy 
tăng uy lực ánh sáng, 
tăng hoan hỷ yên vui, 
hết hiện tượng suy đồi
(65) Đại lục phía nam này 
thần cây trái lúa thóc 
cũng do lực kinh vua 
mà tâm thường hoan hỷ
(66) làm lúa cây thành thục
bông hoa đều sum sê, 
trái hạt đầy phẩm chất, 
tất cả tràn đại địa
(67) Bao nhiêu loại cây cỏ, 
và cả những vườn rừng, 
đều sinh ra hoa đẹp, 
hương thơm thường lan tỏa. 
(68) Những loại cây có hoa 
kết ra các thứ trái, 
thì trái ngon và ngọt, 
và chỗ nào cũng có. 
(69) Cũng tại đại lục này, 
vô số những long nữ 
tâm sinh đại hoan hỷ
cùng vào trong ao hồ. 
(70) Sen hồng, sen trắng nở, 
sen xanh và sen trắng, 
ao hồ nào cũng trồng 
và hoa đầy ao hồ. 
(71) Uy lực kinh vua này 
làm không gian trong sáng
mây mù bị xua tan
toàn bộ đều sáng sủa. 
(72) Thái dương phóng ánh sáng 
trong suốtrực rỡ
do lực kinh vua này 
sáng huy hoàng khắp nơi. 
(73) Uy lực kinh vua này 
hỗ trợ cho quốc chúa, 
có và dùng vàng ròng 
kiến tạo cung điện. 
(74) Thần thái dương vui vẻ 
nhìn thấy đại lục này, 
nên thường đem sáng lớn 
chiếu rực khắp mọi nơi
(75) Do vậy trong đại địa 
bao nhiêu hồ ao sen, 
ánh sáng chiếu đúng lúc 
nên hoa sinh nở cả. 
(76) Trong cả đại lục này 
trái hạt và dược liệu 
đều khéo thành thục hết 
và tràn đầy đại địa
(77) Do uy lực kinh vua, 
nhật nguyệt chiếu đến đâu 
tinh tú đúng hành độ 
gió mưa thuận thời tiết. 
(78) Khắp đại lục Thiệm bộ 
đất nước rất giàu vui, 
chỗ nào có kinh vua 
hơn chỗ khác bội phần. 
(79) Kinh Ánh sáng hoàng kim 
quảng bá đến chỗ nào, 
có người giảng và tụng 
thì phước được như vậy. 
Bấy giờ Đại cát tường thiên nữ, cùng chư thiên vân vân, nghe đức Thế tôn tuyên thuyết như vậy thì ai cũng đại hoan hỷ, nhất tâm hộ vệ kinh vua và những người thọ trì kinh vua, làm cho những người ấy không lo buồn, được an lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29884)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27169)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21763)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20423)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24738)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23977)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27758)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26505)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21299)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23212)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38118)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19949)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19037)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23143)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22784)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22905)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29560)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20633)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18845)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19646)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20148)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19949)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22916)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34161)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16410)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39233)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26052)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20094)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18844)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24050)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29108)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30941)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20670)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26248)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30023)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20214)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15142)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15825)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23866)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant