Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2- Phương Tiện

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7599)
2- Phương Tiện

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Phương Tiện

1- Giới thiệu trưởng giả Duy-ma-cật

Ở phẩm Phật Quốc giới thiệu những phương pháp để tạo nên một cõi Phật thanh tịnh với hình ảnh cuối cùngđức Phật ấn ngón chân xuống mặt đất thì thế giới Ta-bà hoàn toàn hiện ra hình tướng trang nghiêm thanh tịnh. Điều đó khó thực hiện vì chỉ có Phật mới có khả năng như thế. Đến phẩm này, giới thiệu một phương cách khác, gần gũi hơn, đó là hình ảnh một cư sĩ tục gia nhưng có khả năng của Bồ-tát. Phương tiện cũng có nghĩa là phương tiện thiện xảo, những cách thức thực hiện đem đạo vào đời.

Trưởng giả Duy-ma-cật được giới thiệu một cách trực tiếp với những đức tính như sau:

- Đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng sâu căn lành (với ý nghĩa cúng dường chúng sanh tức cúng dường chư Phật thì trưởng giả đã là bạn thiết ủng hộ chúng sanh, càng ủng hộ chúng sanh thì căn lành càng sâu, chúng sanhđiều kiện để cho gốc lành được nảy nở, chúng sanh là nhân tố tạo nên tư cách của Bồ-tát theo đúng ý nghĩa của phẩm một).

- Có tất cả đức tính cần thiết của người sống giữa cuộc đời: Được vô sanh nhẫn, biện tài vô ngại, sử dụng thần thông như trò đùa, hàng phục các ma chướng oán tặc, đầy đủ trí huệ, rành rẽ mọi phương tiện để hướng dẫn người. Hiểu rõ tất cả tâm tư chúng sanh, biết căn cơ của họ thuộc thành phần nào. Làm việc gì đều suy nghĩ chín chắn theo quy củ của Phật, tâm lượng rộng lớn như biển.

Đưa ra một mẫu người như trưởng giả Duy-ma-cật để chúng ta thấy rằng những người cần thiết cho cuộc đời, hay tự mình đi theo con đường cần thiết cho cuộc đời, nên tự xét những điều kiện kể trên. Không phải chỉ cần là bậc hào phú giàu có, nhưng phải là người tu sâu trong pháp môn của Phật, có những đức tính rộng lớn (từ và trí) mới dám làm việc này.

2- Những phương cách để nhiếp phục người của trưởng giả Duy-ma-cật

- Giàu có để nhiếp phục người nghèo.

- Giữ giới thanh tịnh để nhiếp phục người phá giới.

- Dùng nhẫn nhục nhiếp sân giận.

- Dùng tinh tấn nhiếp biếng lười. 

- Dùng nhất tâm nhiếp người loạn ý.

- Dùng trí tuệ quyết định nhiếp phục kẻ ngu si.

Phật giáo Đại thừa chủ trương nhiếp phục có nghĩa là thâu nhiếp được lòng người, muốn vậy phải có những đức tính mà người không có, nên Duy-ma-cật thực hiện lục độ: Bố thí, … Đó là cách thứ nhất.

Cách thứ hai, sống một đời tại gia cư sĩ nhưng trang nghiêm thanh tịnh như Sa môn, tuy ở nhà mà không đắm trước, có vợ con mà không bị dục nhiễm chi phối, có quyến thuộc mà không bị ràng buộc. Có ăn mặc, cờ bạc vui chơi cũng chỉ tìm cách độ người, đây là một tính cách đồng sự. Đồng mà không bị hóa. Đi đến đâu là để làm lợi ích cho mọi người, không vì đắm nhiễm lợi lạc hay vui chơi vô ích. Người như ông, ở địa vị nào trong bốn thành phần thế gian hay ở các bậc trời cũng luôn luôn làm người bậc nhất.

3- Trưởng giả hiện bệnh

Trên là giới thiệu tổng quát. Đến đây đứng về mặt thiết thực. Muốn mọi người đến với mình, ông hiện bệnh. Vì là người nổi tiếng nên mọi người đều đến thăm. Nhân đó ông dùng chính thân mình để làm đề tài thuyết pháp.

… “Này các vị! Thân này là vô thường, là không mạnh khỏe, không có sức lực, không bền bỉ, là một pháp mau hoại, không đáng tin”.

Một vị cưgiàu có đủ phước lực, mà phải có bệnh để chứng tỏ các pháp là bại hoại, dù danh vọng, dù giàu có cũng không thể qua được cửa ải của thân.

Phải có cái nhìn đúng về thân, dù đang ở địa vị sung túc mới giảng dạy được. Giả như nghèo túng ốm yếu mà kể khổ về thân thì đó là chuyện đương nhiên.

Những bất ổn của thân được nêu ra ở đây hoàn toàn đúng: Như bọt nước, như sương mai, như sóng nắng, như bẹ chuối, như huyễn, như bóng vang, như mây nổi…

Đứng trên lập trường phá ngũ ấm thì trưởng giả đã thông suốt, vì thấy rõ cơ chế cấu tạo của thân này, và thấy rõ mọi khổ đau chấp chặt của chúng sanh đều phát sanh từ thân, nên phá chấp về thân trước.

Đưa đoạn này vào đây để thấy rằng giáo lý của Phật dạy là một mạch thông suốt. Dù Đại thừa, Tiểu thừa, dù người có biện tài thần thông vô ngại tới đâu, cũng phải thấy được thân không thật, không bền, đó mới là căn bản giải thoát

Những bài thuyết pháp về sau của Duy-ma-cật rất tinh vi, rất hùng hồn, nhưng tất cả không thể xa rời bài thuyết pháp đầu tiên đơn giản thiết thực này. Đó là điều chúng ta phải lưu tâm. Đó cũng là cách để chúng ta phán đoán những giáo điều ngoại lai về sau. Những lời dạy khoa trương hoa mỹ đến đâu, mà thiếu cái gốc của Phật giáo “Ngũ ấm khổ - không - vô ngã” đều được coi là ma thuyết.

Từ cái thân hư giả đáng chán này khuyến khích lên một bước là cầu, là mong được Phật thân. Phật thân tức pháp thân, tức chỉ cho chân lý tuyệt đối. Đó là điều mà Duy-ma-cật nhắm đến. “Phát tâm Vô thượng Bồ-đềthành tựu thân Phật”. Chủ đích của Kinh đã nói quá rõ qua câu này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15005)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13444)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15123)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16491)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13215)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12583)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13461)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13411)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12759)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12074)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11973)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12646)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11474)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11781)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11149)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13279)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13161)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11587)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12167)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12355)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11950)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12744)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12366)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12191)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12259)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12009)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11954)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11221)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11369)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12375)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12461)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11994)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12959)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12038)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12601)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13007)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13944)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12736)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14864)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11924)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12182)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12883)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12771)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14764)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12744)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15389)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12574)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13215)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14237)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15546)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13745)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13136)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13568)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12480)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12085)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12896)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12979)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13207)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21333)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143636)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant