Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 1 Huấn Luyện Xuất Gia

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7335)
Chương 1  Huấn Luyện Xuất Gia

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Chương 1 
Huấn Luyện Xuất Gia 

Đức Phật chế Cận Trụ Luật Nghi, mục đích để cho người tại gia có được phương pháp tu học xuất gia tạm thời. Như trong Kinh Thập Thiện Giới dạy: “Bát Trai Giới là do chư Phật quá khứ, hiện tại vì hàng tại gia chế pháp xuất gia”. Do đó, ta thấy rõ rằng: Chẳng riêng Đức Thích Ca chỉ bày pháp xuất gia Bát Trai Giới này cho hàng tại gia, mà chư Phật quá khứ cũng đều chỉ dạy như vậy. Từ quá khứ, hiện tại, suy đến vị lai, tất nhiên chư Phật vị lai cũng có chế độ này. Vì vậy, Bát Trai Giới tuy có vẻ đơn giản, song rất ư trọng yếu, đáng cho Phật tử thường luôn thọ trì, học tập phát xuất gia Bát Quan Trai này, để từ từ tiến đến việc chánh thức xuất gia

Ở đây, hẳn có người tự hỏi: “Phật pháp đã có hai chúng xuất giatại gia. Hàng đệ tử tại gia có thể ở nhà tu học được rồi, cần gì phải chế pháp xuất gia tạm thời này?” Về điểm này, tôi xin minh xác cùng quý vị: Phật pháp tuy cũng nói có thế gian pháp, nhưng vẫn lấy xuất thế làm mục đích tối hậu, không hề coi thế gian pháp là trọng. Những người đắm nhiễm thế gian, dĩ nhiên muốn họ xuất thế không phải điều dễ, hơn nữa, sức họ cũng không làm nổi chuyện đó. Nhưng bất luận họ đủ sức hay không, để đạt được mục đích tối cao, chỉ cần trong đầu óc người học Phật luôn tâm niệm rằng đây là mục đích duy nhất của mình. Không những chỉ vậy mà còn phải luôn ghi nhớ không quên, mong mỏi sẽ có ngày thực hiện trọn vẹn được mục đích xuất thế. Đó là căn bản của việc học Phật. Người học Phật nếu khôngý niệm này thì dẫu học hay tu hành môn nào, cũng vẫn không tương ưng với tinh thần chính yếu của Phật pháp

Phật pháp đã coi xuất thếmục đích cao nhất, xuất gia lại là con đường để đi tới mục đích này, nên tuy là hàng tại gia học Phật cũng cần tìm cách học tập đời sống xuất gia để sau này ắt có ngày chân chính xuất gia, dõng tiến trên con đường xuất thế giải thoát. Phật pháp dĩ nhiên chẳng kêu gọi hết cả mọi người phải xuất gia, chỉ có điều hoàn cảnh thanh tịnh và phương thức sinh hoạt của đời sống xuất gia thích hợp với những người tìm cầu xuất lytiến tu giải thoát, bởi họ nhận ra rằng đây là con đường thích hợp nhất để đạt được xuất thế giải thoát

Tại sao trong Phật giáo lại coi trọng pháp xuất gia như vậy? Bất luận các Thánh Quả của hàng Đại Thừa hay Tiểu Thừa, dù A La Hán Quả hay Vô Thượng Phật Quả, cũng đều do xuất gia mới hoàn thành. Như hỏi ba đời chư Phật thành Phật cách nào? Đức Phật trả lời trong kinh, không có vị Phật nào không từ xuất giathành Phật. Nếu đã như vậy, chúng ta học Phật, mong mỏi tương lai thành Phật, nếu không phát tâm xuất gia, làm sao thành tựu được mục đích thành Phật? Luận Bồ Tát Bổn Sinh nói: “Lợi ích của xuất gia cao hơn cả Tu Di, sâu hơn biển cả, rộng hơn hư không. Sở dĩ như vậy là do xuất gia mới thành Phật, ba đời chư Phật chưa có vị nào thành Phật mà không do nhờ xả gia xuất gia cả”. Vì vậy, người hành Phật pháp, nếu muốn chứng thành Phật Quả, tất phải có ngày xả tục xuất gia. Muốn khỏi xuất giathành Phật, cứ y theo kinh điển thì điều này không thể thành tựu được. 

Chẳng những ba đời chư Phật như vậy, mà ngay cả đến A La Hán của Tiểu Thừa cũng thế. Cứ như thuở giờ vẫn thấy người xuất gia chứng Sơ Quả, tại gia cũng chứng Tu Đà Hoàn, cho đến hàng xuất gia chứng Tam Quả, tại gia chúng cũng chứng quả Bất Hoàn (A Na Hàm), điều này chẳng có gì lạ từ thời Phật đến sau này, nên ba quả đầu, xuất gia, tại gia đều có thể chứng quả bình đẳng như nhau. Trừ ra A La Hán, tại gia không thể chứng được. Điều này không có nghĩa hàng cư sĩ học Phật không có khả năng chứng quả A La Hán, mà ngụ ý phải hiện tướng xuất gia trước khi chứng A La Hán quả. Như sắp chứng A La Hán quả mà vẫn xả không nổi mái tóc, xuất gia thì vẫn dừng ở Tam Quả. Vậy nên mới biết: Xuất gia mới đạt được quả vị cao nhất của cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa

Nhưng vì đời sống xuất gia không đơn giản đến mức độ ai cũng làm được, nên đức Phật đại từ đại bi, vì hàng tại gia học Phật, chế ra Bát Quan Trai Giới một ngày một đêm để huấn luyện cho người học Phật từ từ quen với đời sống xuất gia. Vì vậy, Thái Hư Đại Sư nói: “Đây là Phật vì cư sĩ tại gia chế ra giới điều để luyện tập ngắn hạn đời sống xuất gia”. Hoặc có người cho rằng: “Tôi đã thọ ngũ giới, hoặc đã thọ Bồ Tát giới, cần gì phải thọ Bát Quan Trai giới?” Phải biết thọ Bát Quan Trai Giớithọ sự huấn luyện đời sống xuất gia, cũng như tân binh phải tập tác chiến, từ từ huấn luyện không ngừng sẽ trở thành thói quen, khác hẳn thọ ngũ giới hay tại gia Bồ Tát giới sống đời thế tục. Đây là điều chư vị phải nhận thức rõ ràng trước tiên

Có người ngỡ đời sống xuất gia rất đơn giản, cho rằng xuất gia là chuyện dễ, thậm chí bảo rằng người xuất gia được hưởng phúc nhàn. Nào hay đời sống xuất gia rất mộc mạc, thanh bần, ngay đến nhu yếu trong đời sống như y phục, đồ ăn, chốn ở đều khác người thường. Trong Giới Luật đã dạy chúng ta: Hàng nam tử, nữ nhân xuất gia phải mặc áo hoại sắc, phải bỏ hết các món trang sức, phải ở phòng ốc giản lậu; y lời Phật dạy, xuất gia còn phải ôm bát đi khất thực. Các vị hiện tại thọ Bát Quan Trai Giới, bao nhiêu nữ trang, vàng ngọc đều rời bỏ, y phục hoa hòe đều được thay bằng áo hoại sắc, đó là tập đời sống thanh đạm của người xuất gia. Các vị đều nhất nhất làm tròn, chứng tỏ các vị đã nhận chân được trong lúc sống đời xuất gia, là đang quan sát để cải tiến đời sống vật chất hưởng thụ của ngày hôm nay. Các vị hẳn rất khó được như vậy. 

Song thực sự xuất gia không chỉ có như vậy, trong Giới Luật dạy phải khéo nhẫn chịu mười việc: 

1) Thứ nhất, trời lạnh phải chịu đựng được hàn khí xâm hại, chẳng nề mưa tuyết, gió sương. 

2) Thứ hai, trời nóng phải kham nổi nắng thiêu gay gắt, chẳng quản khí trời oi ả như thiêu như đốt. 

3) Thứ ba, phải chịu đựng được các thứ bức hại từ thiên nhiên, chẳng ngại một thứ nào cả. 

4) Thứ tư, phải chịu được sấm sét rung trời, quyết không vì vậy mà sợ sệt rúc trốn. 

5) Thứ năm, khi bụng đói cồn cào vẫn phải chịu đựng được cơn đói.

6) Thứ sáu, miệng khô, cổ rát vẫn nhẫn được cơn khát.

7) Thứ bảy, nghiêm cách tuân thủ không ăn quá ngọ, mỗi ngày chỉ ăn một bữa đúng ngọ, hoặc hai bữa sáng và ngọ. 

8) Thứ tám, nghiêm cách trì giữ các giới hạnh của Đức Phật chế ra, cho dẫu lúc bị đe dọa tánh mạng , cũng không được làm trái giới luật.

9) Thứ chín, nhẫn chịu các ác ngữ khi nghe lời nhục mạ, chế giễu, nói bóng, nói gió, nói sàm, nói quấy của người khác, phải tảng lờ như không nghe, quyết không cho đó là điều ngang ngược. 

10) Thứ mười, nhẫn chịu độc trùng làm hại. Bởi lẽ, Ấn Độ là xứ nhiệt đới, các vị Tỳ Kheo thường ngồi dưới gốc cây. Trong mười hai hạnh Đầu Đà, có pháp ngồi dưới gốc cây. Muỗi mòng và độc trùng đến bức hại, Đức Phật chỉ cho phép đuổi loài độc đi, hoặc các vị Tỳ Kheo phải sắp xếp nơi chốn sạch sẽ, tránh làm chỗ sanh sản cho độc trùng, tuyệt đối cấm Tỳ Kheo không được giết hại độc trùng

Như mười điều đã nói ở trên, nghe có vẻ giản đơn, song biết bao người nhẫn chịu không nổi mười điều này, nên trong Luật, Đức Phật nói rằng: “Chỉ có đại trượng phu mới nhẫn nổi”. Xuất gia cho đúng pháp, thực là điều cao quý. Nếu chịu không nổi các sự bức hại của hoàn cảnh, sự đả kích của tha nhân, sự gây tổn hại của độc trùng, sự đạm bạc của đời sống, thì không bao giờ trở thành người xuất gia chân chính được. Vì vậy, thật tình mà nói, xuất gia không phải là chuyện dễ. 

Đức Phật vì hàng tại gia học Phật, chế Cận Trụ Luật Nghi học tập đời sống xuất gia, phải nói đó là thiện xảo phương tiện, bởi lẽ Đức Phật hiểu rõ căn lành giải thoát xuất thế không thể gieo trồng trong chốc lát, phải huân tập lâu dần mới thành tựu. Tuy vẫn có thể học Phật tại nhà, song hiềm bị quyến thuộc bao quanh, ân ái trói buộc thân tâm, điều này gây trở ngại không ít cho mặt tu trì, nên Đức Phật phương tiện chế Bát Quan Trai Giới một ngày một đêm, khiến hàng nhị chúng nam nữ học Phật tuy ở trong gia đình mà vẫn làm được như trong Kinh Bát Đại Nhân Giác: “Ngũ dục họa hoạn, không nhiễm thế duyên” để có thể làm nổi: “Thường niệm ba y, bình bát pháp khí, chí nguyện xuất gia”. Như vậy mới được nhân duyên thù thắng xả tục xuất gia, giải thoát ràng buộc. Cho nên Bát Quan Trai Giới chính là một trong những pháp môn phải tu của người học Phật tại gia muốn tiến lên con đường giải thoát

Thọ trì Bát Quan Trai Giới đã là sự huấn luyện cho người tại gia tập đời sống xuất gia nên tôi rất mong trong số các vị thọ giới hôm nay, do sự huấn luyện này mà chân chánh phát tâm xuất gia. Phật giáo ngày nay mong mỏi có người, đặc biệtnam nhân, phát tâm xuất gia. Điều này đã trở thành vấn đề cấp bách. Bởi vì trong nước cũng như hải ngoại, Tăng chúng càng ngày càng ít. Nếu không có những người mới xuất gia bù vào, chẳng những không người hoằng dương chánh pháp, mà ngay đến chùa chiền cũng thiếu Tăng trụ trì. Như thế há bảo vấn đề chưa đến nỗi nghiêm trọng ư? Sự kiện này há không khiến những người quan tâm đến sự tồn vong huệ mạng Phật giáo lo như lửa đốt sao? Há không tìm cách lôi kéo thanh niên đến chùa học Phật xuất gia sao? Há không vì mạng mạch của Tăng già sắp đứt mà tìm cách cứu vớt sao? 

Kinh luật dạy chúng ta: “Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, khuyên người xuất gia, khen ngợi kẻ xuất gia, hoặc chính mình xuất gia, hoặc để người xuất gia, đều có đại công đức”. Như Kinh Hiền Ngu Nhân Duyên thuyết: “Cho người xuất gia hoặc tự xuất gia, hoặc già hoặc trẻ, phúc đức vô cùng”. Nhưng tôi cho rằng: ngày nay Tăng chủng sắp đoạn tuyệt, nếu khéo khuyên người xuất gia, hoặc huấn luyện người xuất gia, thì được công đức cũng không thể nghĩ bàn. 

Phật giáo sở dĩ có chế độ xuất gia, đức Phật sở dĩ lập Tăng đoàn, mục đích để cho chánh phápNhư Lai cần khổ chứng được được tiếp nối lâu bền ở thế gian. Cũng bởi lẽ này nên đức Phật đã trịnh trọng giao phó trụ trì Tam Bảo cho hàng Tăng chúng. Có Tăng chúng hành hóa, một số người mới biết có Phật, có Pháp. Giả sử nếu khôngTăng chúng, thử hỏi ai biết được chánh pháp của Như Lai, biết được bậc Đại Giác? Vì thế, bất cứ ở thời đại nào, dầu là thời Chánh Pháp, Tượng Pháp hay Mạt Pháp đi nữa, Tăng Già, một trong Tam Bảo, vẫn không sao thiếu được. Nếu Tăng không có, Phật pháp ắt diệt vong. Phật Pháp lưu hành được ở thế gian hay không cũng tùy thuận nơi có Tăng Già hay không. Luật nói: “Tăng có thì Pháp có, Pháp có tức Phật có”. Đây là nói rõ ý đó vậy. 

Vì Tăng có, để Pháp có là do nơi có người xuất gia. Như nếu không người xuất gia, thử hỏi Tăng ở đâu mà có? Thế nên, xét đến tột gốc, việc thứ nhất vẫn là khuyên người xuất gia. Như tự mình không khuyên người xuất gia, người khác tự đến xuất gia, lý ra khuyến khích và tán thán. Giả như không làm như vậy, mà ngược lại chế giễu, khinh miệt, cản trở người xuất gia, khác gì diệt mất hạt giống Tăng Già, cũng đồng với diệt hạt giống Phật, lỗi này rất lớn vậy. Kinh Xuất Gia Công Đức nói: “Nếu có người phá hoại nhân duyên xuất gia của người khác, tức là cướp đoạt kho báu vô tận phúc thiện, hủy hoại nhân của 37 phẩm Trợ Đạo; ở nơi bốn đường (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nhân), sanh ra thường đui, người này không có ngày giải thoát”. Như vậy, vào thời buổi Tăng chủng sắp diệt này, chúng ta sao đành nhẫn tâm phản đối người ta xuất gia

Xuất gia trong đạo Phật là việc cao thượng, không như một số người tưởng tượng, không còn cách gì nữa mới xuất gia. Nhưng người Trung Quốc đối với xuất gia thuở giờ thường hay quan niệm cho rằng xuất gia rồi không được hoàn tục, làm cho nhiều người muốn xuất gia mà không dám, vì sợ xuất giatrở về thì rất khó coi. Kỳ thật, Phật Pháp không có quy định cứng ngắc “xuất gia không được hoàn tục”, mà vẫn cho phép trở về. Vào thời không người phát tâm xuất gia này, điều này càng cần phải nhấn mạnh. Như vậy, bất kể ai, chỉ cần phát tâm xuất gia, không cần quy định kỳ hạn xuất gia, xuất gia hai ba tuần cũng được, hai ba tháng cũng được, đôi ba năm cũng tốt, được trường kỳ càng tốt. Đến lúc nào đó, muốn trở lại đời sống thế tục, cứ việc tự do rời đạo về thế. 

Có điều hoàn tục cần có điều kiện, không được lén lút mà phải công khai trở về, phải trình bày rõ với một vị cao tăng. Như vậy, tuy hoàn tục vẫn là đệ tử Tam Bảo, vẫn thường lui tới chùa chiền. Ngày trước, những người xuất gia muốn hoàn tục phải lén lút trốn về. Tại vậy nên một khi hoàn tục là bỏ hết mọi quan hệ với Phật pháp, trong Phật pháp không còn thấy bóng dáng người đó nữa, chẳng những mất đi một vị Tăng, còn mất thêm một tín đồ, thật là mất mát cho Phật Giáo. Thái Hư Đại Sư hiểu rõ việc này nên hô hào mọi người nên “tôn trọng Tăng nhân hoàn tục”. Do đó, chư vị như không thể trọn đời xuất gia, cũng không nên ngại xuất gia ngắn hạn thử. Được tinh thần này, xuất gia cứ xuất gia, hoàn tục cứ hoàn tụctrôi chảy chẳng dừng, khiến Tăng chủng không dứt, chùa chiền trụ trì cũng không thành vấn đề! 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15662)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10973)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53435)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12869)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16387)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15257)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19047)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19811)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15416)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15236)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20179)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 23719)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15347)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12946)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19843)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13164)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28925)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11601)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18181)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16522)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13122)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12688)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13119)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12878)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12765)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12897)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13431)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11585)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14130)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17642)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22263)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13341)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14191)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105544)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14498)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19630)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38291)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15413)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34535)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 15939)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11263)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15562)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13901)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12736)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13566)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12392)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19285)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26879)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13048)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13367)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21471)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17855)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21751)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14080)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15961)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15980)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18965)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24589)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant