Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương V: Định - Những Kasina Khác

02 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7725)
Chương V: Định - Những Kasina Khác

THANH TỊNH ĐẠO 
(The Path of Purification - Visuddhimagga )
Luận sư Bhadantacariya Buddhaghosa
Chuyển dịch từ Pàli sang Anh ngữ: Trưởng lão Nanamoli
Chuyển dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ: Thích Nữ Trí Hải

Phần thứ hai: Định

Chương V
Định: Những Kasina Khác

Kasina Nước

1. Người tu tập về biến xứ này, cũng như trong trường hợp biến xứ đất, cần có thể ngồi thoải mái và nắm lấy tướng nước hoặc được tạo hoặc không được tạo. Những gì còn lại cũng như đã nói ở phần kasina đất. Từ đây chỉ nêu lên những gì khác biệt.

2. Khi một người đã thực hành ở đời trước, thì tướng hiện ra cho vị ấy về nước không cần tạo tác, như một cái ao hồ, vịnh, đại dương... Như trường hợp trưởng lão Cùla-Sìva. Vị trưởng lão muốn từ bỏ danh xưng lợi dưỡng để sống đời viễn ly. Ngài xuống tàu ở Nahàtittha đi Ấn độ. Khi ngắm nhìn biển khơi, tợ tướng của biển ấy hiện lên nơi ngài.

3. Người chưa tu tập đời trước, thì phải làm một kasina, đề phòng bốn lỗi của Kasina (Ch. IV, 24) và đừng năm lấy tướng nước kế như màu sắc. Hành giả nên lấy một cái bát đựng nước cao độ bốn gang tay, đổ đầy ngang miệng các thứ nước không bị dơ vì đất, như nước hứng giữa trời qua một tấm vải lọc, hoặc bất cứ loại nước trong nào. Hành giả nên để nó ở một nơi kín đáo, khuất nẻo trong tu viện, và ngồi cho thoải mái. Không nên quán màu sắc hay để ý đến đặc tính của nước, mà chỉ nắm lấy màu sắc kể như nền tảng vật lý của nó, và chú tâm trên khái niệm danh từ làm tâm pháp trội nhất, và xử dụng bất cứ danh từ nào chỉ "nước" như àpo, ambu (mưa), udaka ( chất lỏng), vàri (sương), salida (chất lỏng) v.v... Vị ấy nên khai triển biến xứ nước bằng cách dùng cái tên rõ rệt nhất (cho mình) như "nước, nước".

4. Khi hành giả tu tập cách ấy cuối cùng, 2 tướng sẽ khởi lên như đã nói. Tuy nhiên, ở trường hợp này, sơ tướng có vẻ di động. Nếu nước có bọt hay bong bóng, thì sơ tướng cũng có tướng y hệt. Nhưng tợ tướng thì hiện ra bất động như cái quạt lớn bằng pha lê giữa hư không, như một mặt gương tròn. Khi tương ấy xuất hiện, hành gỉa đạt đến định cận hành, và định an chỉ thuộc tứ thiền, ngũ thiền theo cách đã mô tả.

Kasina Lửa

5. Người muốn tu tập Kasina lửa cần nắm lấy tướng lửa. Khi hành giả đã tu tập từ đời trước, thì tướng sinh khởi trong bất cứ loại lửa nào không cần tạo tác, như khi nhìn tim bấc cháy nơi ngọn đèn hay nơi một hoả lò, nơi chỗ nung chén bát, hay nơi một đám cháy rừng, như trường hợp trưởng lão Cittagutta. Tướng khởi lên nơi trưởng lão khi ngài nhìn ngọn đèn trong ngôi nhà làm lễ bố tát

6. Còn những người khác thì phải làm một kasina lửa như sau: Chẻ một miếng gỗ giữa lõm cây còn ướt, phơi khô và bẻ ra từng khúc. Hành giả nên đi đến một gốc cây hay một túp lều, làm một đống củi như người ta làm để nung chén, và thắp lửa. Trước ngọn lửa, treo một tấm thảm bằng da hay vải, ở giữa khoét một lỗ trống tròn đường kính một gang bốn ngón, rồi ngồi xuống như đã nói. Thấy vì chú ý đến cỏ, củi ở dưới, hoặc khói ở trên, hành giả phải nắm lấy tướng nơi ngọn lửa rực sáng ở giữa.

7. Hành giả không nên quán sát màu sắc v.v... Hay đặc tính của lửa như nóng v.v... Mà xem màu sắc như nền tảng vật lý của lửa, và chú tâm trên khái niệm danh từ làm tâm pháp trổi nhất, rồi khai triển biến xứ lửa bằng cách sử dụng danh từ rõ nhất "lửa, lửa".

8. Khi tu tập cách ấy, cuối cùng hai tướng khởi lên như đã mô tả. ở đây, sơ tướng xuất hiện như ngọn lửa tách rời (khỏi chất đốt). Nhưng khi một người nắm lấy tướng nơi một kasina cũng hiển lộ nơi sơ tướng: một que lửa, hay một đống than hồng, tro, khói... đều hiện ra. Tợ tướng thì bất động như một mảnh vải nhỏ đặt giữa hư không, như một cái quạt bằng vàng, hay một cột trụ bằng vàng ròng. Với sự xuất hiện của tợ tướng, hành giả đạt đến định cận hành và định an chỉ thuộc tứ thiền, ngũ thiền như đã nói.

Kasina Hư Không

9. Người muốn tu tập biến xứ này, phải nắm lấy tướng hư không. Việc ấy được thực hiện bằng mắt hoặc bằng tay sờ. Vì luận nói: " Hành giả để ý những đọt mía di động qua lại, hoặc những ngọn tre, ngọn cây, hay đầu sợi tóc di động. Hoặc để ý sự xúc chạm của gió trên cơ thể".

10. Bởi thế, khi thấy những cây mía rậm rạp, ngọn ngang nhau, hoặc những cây tre, hay thấy tóc dài bằng 4 ngón tay ở đầu người bị gió thổi, hành giả nên an trú niệm: "Gió đang thổi ở chỗ này". Hoặc vị ấy có thể an trú niệm khi gió thổi đến một thân phần của mình sau khi luồn qua cửa sổ hay khe hở trong tường, và dùng bất cứ tên nào chỉ gió rõ nhất, như "hư không, hư không".

11. Ở đây, sơ tướng hiện ra di động, như hơi nóng quyện trên cơm sôi. Tợ tướng thì an tĩnhbất động. Những gì còn lại cũng như đã nói.

Kasina Xanh

12. Kế tiếp, Luận nói: "Người học kasina xanh nắm lấy tướng màu xanh nơi một cái hoa, một tấm vải hay vật có màu xanh. Người nào đã thực hành từ tiền kiếp, tướng khởi lên nơi vị ấy khi thấy một bụi hoa xanh, hoặc hoa được bày ở chỗ dâng cúng, hoặc thấy một mảnh vải xanh hay viên ngọc xanh.

13. Người chưa từng tu tập thì phải dùng hoa như hoa sen xanh v.v... rải đầy mâm hay rổ cạn, đừng để lòi cọng ra, hoặc chỉ lấy cánh hoa. Hoặc dùng những mảnh vải xanh bó lại để đầy rổ như một cái mặt trống. Có thể làm Kasina bằng một cái dĩa tròn để mang theo hay cố định, như đã nói ở kasina đất, bằng một trong những màu lục, xanh lá cây v.v... viền quanh bằng một màu khác. Rồi hành giả nên để tâm trên tướng ấy "xanh, xanh", như đã nói trong phần biến xứ đất.

Ở đây cũng thế, bất cứ lỗi nào của kasina cũng sẽ nổi bật ở sơ tướng, như những cọng hoa lòi ra, khe hở giữa các cánh hoa, v.v... đều hiện rõ. Còn tợ tướng thì xuất hiện như một cái quạt pha lê giữa hư không, tách rời khỏi dĩa Kasina.

Kasina Vàng

15. Cũng thế, với biến xứ màu vàng, luận nói: "Người học kasina vàng nắm lấy cái tướng màu vàng nơi một cái hoa hay vải hay một vật có màu vàng". Bởi thế ở đây, một người đã có công đức nhờ thực tập đời trước, tướng xuất hiện cho y khi nhìn một bụi hoa, một miếng vải hay một vật có màu vàng, như trường hợp trưởng lão Cittagutta, khi ông nhìn những hoa pattanga được dâng cúng trên điện thờ ở Cittalapabbata. Vừa lúc ấy, tướng xuất hiện cho vị ấy với hình vóc cả một cái bàn thờ.

16. Những người khác thì phải làm một kasina theo cách đã nói ở kasina xanh, nghĩa là với hoa màu vàng, vải vàng hay vật gì có màu ấy, và để tâm trên tướng là "vàng, vàng".

Kasina Màu Đỏ

17. Cũng thế, với kasina đỏ: "Người học kasina đỏ nắm lấy tướng màu đỏ nơi một cái hoa, mảnh vải hay một vật có màu đỏ". " ở đây cũng vậy, người nào đã từng tu tập đời trước, tướng khởi lên khi trông thấy một bụi hoa đỏ, hoặc hoa được rải ra, hoặc thấy một mảnh vải đỏ hay ngọc màu đỏ.

18. Những người khác cần phải làm một kasina như đã nói, và để tâm trên tướng ấy "đỏ, đỏ". Những gì còn lại cũng như đã nói ở phần biến xứ đất.

Kasina Trắng

19. Về kasina trắng, luận nói: "Người học kasina trắng nắm lấy tướng màu trắng nơi một cái hoa, mảnh vải hay vật màu trắng". Người đã thực hành đời trước, thấy tướng xuất hiện khi nhìn một bụi hoa lài, sen trắng, huệ trắng, vải, vật gì trắng, hoặc nơi cái dĩa bằng thiếc, bằng bạc, hoặc mặt trăng.

20. Còn những người khác thì phải làm một kasina theo cách đã nói ở phần làm kasina xanh, bằng cách dùng hoa trắng v.v... Hành giả đưa tướng ấy lên tâm tưởng "trắng, trắng". Còn lại cũng như đã nói.

Kasina Ánh Sáng

21. [người học kasina ánh sáng nắm lấy tướng ánh sáng nơi một cái lỗ trong vách tường, hay nơi lỗ khoá, hay nơi cửa sổ mở]. một người đã thực hành đời trước, thì tướng khởi lên khi thấy một vòng sáng trên đất do mặt trời mặt trăng chiếu, xuyên qua kẽ lá hay qua kẽ hở của gian nhà lá. những người khác thì phải sử dụng một vòng tròn ánh sáng và khai triển nó theo cách đã nói trên: "sáng, sáng".

22. hoặc là thắp một ngọn đèn trong cái bình, đậy nắp và khoét một lỗ bên hông, để lỗ hổng đối diện vách tường, ánh đèn xuyên qua lỗ hổng chiếu lên vách một vòng tròn, hành giả khai triển tướng ấy bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần: "sáng, sáng". việc này kéo dài lâu hơn nhứng thứ khác. Ở đây, sơ tướng giống như vòng tròn chiếu trên vách hay trên đất.

23. Tợ tướng thì như một chòm ánh sáng dày đặc. những gì còn lại cũng như đã nói.

Kasina Khoảng Không Có Giới Hạn

24. Người học kasina này nắm lấy tướng nơi một lổ hổng trong vách, nơi ổ khoá hay cửa sổ mở. Với người đã từng thực hành đời trước, tướng kh?i lên khi vị ấy trông thấy bất cứ một khe hở nào, như nơi lỗ tường.

25. Những người khác thì phải làm một lỗ hổng rộng một gang bốn ngón, trong một cái chòi hoặc nơi một miếng da, một chiếc chiếu, v.v.... Và tu tập: " hư không, hư không".

26. Ở đây, sơ tướng hiện ra giống như cái lỗ cùng với vách tường vây quanh. Nỗ lực nới rộng tướng ấy đều vô ích. Tợ tướng như một vòng tròn bằng hư không. Nỗ lực để nói rộng tướng ấy sẽ thành công. Những gì còn lại thì như đã nói.

Tổng Quát

27. Đấng Mười lực, Bậc thầy tất cả nói mười biến xứ, mỗi thứ đều có thể làm nhân cho bốn thiền và năm thiền. Là chìa khoá chủ chốt của sắc giới. Sau khi đã rõ sự mô tả chúng, và cách tu tập mỗi biến xứ, cách mở rộng. Bấy giờ còn lại vài điểm đáng học tập. Mỗi điểm có một vai trò đặc biệt.

28. Trong những biến xứ nầy, thì kasina đất là căn bản cho những thần thông: "Một thân biến ra nhiều thân? (D. i, 78) v.v... Và đi, đứng, ngồi giữa hư không hay trên nước bằng cách tạo ra đất, và năng lực có được những thắng xứ (abhibh-àvatana bases of mastery) bằng phương pháp hữu hạn hay vô hạn (M. ii, 13)

29. Kasina nước là căn bản cho những thần thông như độn thổ, chui ra khỏi đất (D. i, 78), làm mưa, tạo ra sông, biển, làm cho quả đất, núi đá, đền đài rung chuyển. (M. i, 273).

30. Kasina lửa là căn bản cho những năng lực như làm ra khói, ra lửa, chỉ đốt cháy những gì mình muốn đốt, (S. iv, 290), tạo ra ánh sáng để thấy sắc bằng thiên nhãn, dùng hoả đại đốt thân khi nhập niết bàn.

31. Kasina gió là căn bản cho những thần thông như đi nhanh như gió, tạo ra những trận cuồng phong.

32. Kasina xanh là căn bản cho những thần thông như tạo ra những hình thù màu đen, bóng tối, đạt được những thắng xứ nhờ phương pháp đẹp và xấu, và đạt đến giải thoát nhờ sắc (xem tám Giải thoát, D. ii, 12)

33. Kasina vàng là căn bản cho những thần thông như tạo ra hình tướng màu vàng, biến cái gì thành vàng ròng, đạt những thắng xứgiải thoát nhờ sắc.

34. Kasina đỏ là căn bản cho những thần thông như tạo ra những hình tướng màu đỏ, đạt những thắng xứgiải thoát nhờ sắc.

35. Kasina trắng là căn bản cho những thần thông như tạo những hình dạng màu trắng, trừ hôm trầm thuỵ miên (ngủ ngục), xua tan bóng tối, tạo ra ánh sáng để thấy sắc bằng thiên nhãn.

36. Kasina ánh sáng là căn bản cho những thần thông như tạo những hình dạng có ánh sáng, trừ hôn trầm thuỵ miên, xua tan bóng tối, tạo ánh sáng để thấy sắc bằng thiên nhãn.

37. Kasina hư khôngcăn bản cho những thần thông như làm hiện ra những gì bị che kín, đi đứng nằm ngồi trong đất hay đá nhờ tạo ra hư không trong đó, du hành xuyên qua tương vạch không trở ngại v.v...

38. Sự xếp loại "trên, dưới, xung quanh thuần nhất, vô lượng" áp dụng cho tất cả các Kasina, như kinh (M. ii, 14) nói "Vị ấy thấy đất Kasina đất ở trên, dưới, xung quanh, toàn đất vô lượng.".

39. "Trên" là hướng về vòm trời. "Dưới là hướng mặt đất. Xung quanh là vây quanh như bán kính một thưả ruộng. Vì có người chỉ khai triển Kasina về phía trên, có người chỉ mở rộng phía dưới, hoặc xung quanh, hoặc có người vì một lý do nào đó, chỉ chiếu ra Kasina như khi người ta muốn nhìn một sắc pháp với thiên nhãn, chiếu ra ánh sáng. Thuần nhất (toàn) là không xen những gì khác. Như với một người ở trong nước, thì tứ phía chỉ là nước không gì khác, cũng thế, Kasina đất chỉ toàn là không dính đến những thứ khác. Vô lượng là sự chú tâm vô lượng. Hành giả chú tâm nơi toàn thể, không đo lường như "đây là đầu, đây là giữa".

40. Một hữu tình thuộc loại sau đây không thể tu tập biến xứ nào cả: "Bị nghiệp làm chướng ngại, bị phiền não chướng ngại, bị nghiệp dị thục (quả báo của nghiệp) làm chướng ngại, thiếu đức tin, dục, tuệ, những kẻ ấy sẽ không thể nhập được quyết định tánh là sự chân chánh trong các thiện pháp" (Vbh. 341).

41. "Nghiệp chướng" là nói những người có ác nghiệp kéo theo quả báo tức thì (lúc tái sinh, nghĩa là năm nghiệp ác: theo thứ tự ưu tiên: giết mẹ, giết cha, giết A-la-hán, làm chảy máu thân Phậtphá hoà hợp tăng - cả năm nghiệp này sẽ khiến vào địa ngục sau khi chết, và ở đây suốt một thời gian dài, bất kể đương sự có làm nghiệp gì khác. (MA. iv, 109). "Phiền não chướng" chỉ cho hạng người có tà kiến (bác nhân quả, chấp rằng không có bố thíquả báo bố thí, v.v... - D. i, 2) hạng phi nam phi nữ, hạng không có nam căn. Báo chướng chỉ cho hạng người có một kiết sanh khôngthiện căn hoặc chỉ có hai thiện căn. Thiếu đức tin là không tin Phật, Pháp, Tăng. Thiếu dục: thiếu lòng ham muốn đối với Đạo lộ vô ngại. Thiếu tuệ là thiếu chánh kiến thế gianxuất thế gian. Không thể nhập được tánh quyết định là sự chân chánh của thiện pháp: nghĩa là Thánh đạo, được gọi là "tánh quyết định" và "sự chân chánh của thiện pháp".

42. Người thuộc loại trên lại còn không thể tu tập bất cứ đề mục thiền nào. Bởi thế, việc tu thiền phải được thực hiện bởi một thiện nam tử không bị báo chướng, tránh gây phiền não chướngnghiệp chướng, nuôi lớn đức tin, dục và tuệ, bằng sự nghe pháp, gần gũi bạn tốt, v.v...

Chương năm, "Định: Những Kasina Khác" trong luận về Định tu tập, trong Thanh tịnh Đạo, được soạn vì mục đích làm cho người lành hoan hỉ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11670)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11998)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11141)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11385)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12099)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12589)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10800)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18028)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11755)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9980)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10212)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12384)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15396)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11275)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14364)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12144)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15414)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12039)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12450)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11224)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12130)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10658)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12580)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13206)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14879)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12739)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16614)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19718)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13146)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12692)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12299)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11905)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10940)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13566)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11985)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11883)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11669)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12794)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14565)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12662)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15700)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13657)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12934)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9910)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18046)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11215)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9112)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12218)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13089)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10345)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12232)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15353)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16649)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12252)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11518)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14308)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19750)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14204)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24660)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10722)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant