Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Khái Quát Về Khởi Tín Luận

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7398)
1. Khái Quát Về Khởi Tín Luận

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
(大乘起信論; S. Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra)
Thích Nhật Từ
(Bài dạy tại lớp Cao Đẳng Phật học TP.HCM, khoá IV-2005)

BÀI 1:
 KHÁI QUÁT VỀ KHỞI TÍN LUẬN

 

I. TÁC GIẢ CỦA KHỞI TÍN LUẬN

Đại Thừa Khởi Tín Luận (大乘起信論; S. Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra) còn được gọi tắt là Khởi Tín Luận, tương truyền do ngài Mã Minh (Aśvaghoṣa) biên soạn, là một trong các tác phẩm tinh hoa, giới thiệu về Phật giáo Đại thừa. Nguyên bản Sanskrit của Luận này không còn nữa. 

Các nghiên cứu học đường gần đây đã đặt ra những câu hỏi liên quan đến tác giả của bản luận. Có thực sự Khởi Tín Luận[1] do luận sư Ấn-độ là ngài Mã Minh biên soạn, hay do một vị luận sư người Trung Hoa trước tác sau này. Damien Keown cho rằng vì “không có bản nguyên tác bằng tiếng Ấn-độ nào đã được phát hiện, hiện nay, chúng ta có thể xác quyết rằng bản luận này là một tác phẩm nguỵ tạo có nguồn gốc từ Trung Quốc.”[2]

Các nhà biên tập Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh hồ nghi tác giả của Khởi Tín Luận không phải là ngài Mã Minh nên đã liệt luận này vào Nghi Tợ Bộ.[3] Giả thuyết này có thể do dựa vào Tứ Huyền Luận Luận 10 và 12 của ngài Huệ Quân. Theo tác phẩm này, tác giả của Khởi Tín Luận là một luận sư tông Địa Luận, vì học thuyết Như Lai tạng trong luận này rất giống với tông thuyết của tông Địa Luận. Giả thuyết này cũng được tác giả của Khai Nguyên Thích Giáo Lục 8 cũng như các học giả Vọng Nguyệt Tín Hanh, Lương Khải Siêu, Âu Dương Tiệm, Lư Trừng, Vương Âm Dương v.v… ủng hộ, với những lý do không tìm thấy bản Sanskrit và không có bản Tây Tạng tương ứng. Các học giả khác như đại sư Thái Hư, đại sư Ấn Thuận, HT. Thích Trí Quang, cư sĩ Đường Đại Viên, Chương Thái Viêm và các dịch giả Khởi Tín LuậnViệt Nam đều cho rằng tác giả của luận này không ai khác hơn chính là ngài Mã Minh.[4]

Mặc dù theo các học giả Nhật Bản hiện đại, tác giả của Khởi Tín Luận không phải là luận sư Ấn-độ, mà là luận sư Trung Quốc. Tuy nhiên, họ đã không thuyết phục được giới học giả rằng luận sư Trung Quốc đó là ai. 

Khởi Tín Luận được các trường phái Đại thừa xem như là luận phẩm chánh thống, được sử dụng rộng rãi đến ngày nay, như sách giáo khoa không thể thiếu về áo nghĩa Đại thừa. Trong tương lai, nếu bản nguyên tác Sanskrit không tìm ra được thì đó là một sự mất mát lớn đối với học giới, và do vậy, chúng ta chỉ có thể giới hạn tư tưởng triết học của ngài Mã Minh vào các bản dịch bản chữ Hán được truyền thừa.

 II. CÁC BẢN DỊCH KHỞI TÍN LUẬN

Mặc dù bản nguyên tác Sanskrit không còn, cũng không có bản Tây Tạng để đối chiếu, chúng ta có được hai bản dịch chữ Hán trong Đại Tạng Kinh

Niên đại ra đời của dịch phẩm Khởi Tín Luận cũng không được thống nhất. Trong lời tựa của bản dịch đời Lương, Khởi Tín Luận được dịch ra chữ Hán lần đầu vào năm 550,[5] trong khi đó, có chỗ ghi năm dịch là 553.[6] 

Vào niên hiệu Thừa Thánh thứ ba thuộc triều Lương Nguyên Đế, nhằm năm 553, bản đời Lương của ngài Chân Đế (真諦; S. Paramārtha)[7] được phiên dịch tại chùa Kiến Hưng, thuộc Hoàng Châu, có sự cộng tác của nhiều người. Vương tử Bà-thủ-na (婆首那) người nước Nhục Chi dịch ngữ. Sa-môn Trí Khải chấp bút. Sa-môn Huệ Hiển, Vân Trấn v.v… chứng nghĩa

Theo Chúng Kinh Mục Lục 5 (Đại 55: 142a), có thể ngài Chân Đế không phải là dịch giả của luận này, vì trong tuyển tập các tác phẩm và dịch phẩm của ngài mang tên là Chân Đế Lục không hề thấy ghi chép về dịch phẩm này. Đó là lý do Khởi Tín Luận được liệt vào Nghi Tợ Bộ.

Đây là bản dịch được đưa vào Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, tập 32, các trang 575-583, với nhiều bản sớ giải của các luận sư[8] từ trước đến giờ. Ngoại trừ Suzuki, các học giả đã chọn bản dịch này làm bản nghiên cứu và dịch ra các thứ tiếng khác. 

Vào đời Đường, năm 669, ngài Thật-xoa-nan-đà (實叉難陀; S. Śikṣānanda)[9] đã dịch lại Khởi Tín Luận, đưa vào Đại Tạng Kinh, tập 32: 583-591, ngay sau bản dịch của đời Lương. Bản dịch này chỉ có một bản sớ giải của ngài Trí Húc đời Minh, trong Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh[10] và ít được trích dẫn trong các nghiên cứu học đường.

Các mặc ước trích dẫn của hai bản dịch này sẽ được ghi là Đại 32: 575-583 và Đại 32: 583-591, với mặc ước như sau: Đại viết tắt của Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, 32 là số tập trong ấn bản tân tu của Đại Tạng Kinh vừa nêu và các con số sau dấu hai chấm là số trang tương ứng

D.T. Suzuki là người đầu tiên dịch tác phẩm này ra Anh ngữ. Bản dịch của Suzuki đã được tái bản nhiều lần, vốn dựa vào bản dịch chữ Hán của Thật-xoa-nan-đà. Mỗi lần tái bản, các nhà xuất bản đã đặt lại tên khác. Bản dịch tiếng Anh được nhà xuất bản Asian Humanities Press ấn hành vào năm 1900 ghi là “Luận Đánh Thức Niềm Tin về Đại Thừa của ngài Mã Minh” (Asvaghosha’s Discourse on the Awakening of Faith in the Mahayana); trong khi đó, ấn bản của Nhà xuất bản Dover Publications New York ấn hành vào năm 2003 ghi là “Đánh Thức Niềm Tin: Luận Giải Cổ Điển về Phật Giáo Đại Thừa (The Awakening of Faith: The Classic Exposition of Mahayana Buddhism). 

Bản dịch tiếng Anh thứ hai của Timothy Richard mang tựa đề là “Đánh Thức Niềm Tin của Mã Minh” (The Awakening of Faith of Ashvagosha) được ấn hành vào năm 1907. Mặc dù dịch sau Suzuki, bản này không được đầu tư một cách công phu, như một dịch phẩm học đường, thiếu hẳn phần nghiên cứu và chú thích cần thiết.

ít nhất năm bản dịch tiếng Việt đã được xuất bản từ trước đến giờ. Các bản dịch này đều dựa vào bản dịch chữ Hán đời Lương của ngài Chân Đế. Bản dịch tiếng Việt của chúng tôi lấy bản đời Lương làm chuẩn, có đối chiếu với bản dịch đời Đường của ngài Thật-xoa-nan-đà. Các điểm khác biệt sẽ được ghi nhận ở phần cước chú, để độc giảthể tham khảo khi cần thiết.

Bản dịch của cư sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám có thể là bản dịch tiếng Việt đầu tiên dưới dạng bản cảo. Bản dịch này được sử dụng làm giáo án cho tăng sinh của Phật Học Đường Báo Quốc khoảng 50 năm về trước. Bản dịch này đã được HT. Thích Trí Quang giới thiệu trong phần phụ lục của Khởi Tín Luận của mình (các trang 277-343). Bản dịch này không có chú thích, cũng không có phân đề mục, như chính trong bản nguyên tác.

HT. Thích Trí Quang có hai bản dịch về Khởi Tín Luận. Bản dịch đầu được xuất bản vào năm 1949. Bản dịch mới nhất có bổ sung và chú thích đầy đủ hơn được xuất bản năm 1995. Đây là hai bản dịch có đối chiếu tham khảo với bản dịch đời Đường, có chú thích chi tiết, phân chương mục cụ thể, theo phong cách học đường, rất có giá trị cho việc khảo cứu chuyên sâu về đề tài.

Bản dịch của HT. Thích Thiện Hoa mang tựa đề “Luận Đại Thừa Khởi Tín - Dịch Nghĩa và Lược Giải” được xong vào năm 1962, được đưa vào bộ “Phật Học Phổ Thông, khoá X-XI, và được tái bản nhiều lần. Cấu trúc của dịch phẩm này dựa vào cấu trúc truyền thống của bản dịch chữ Hán đời Lương, nhưng lại phân chia thành bài khoá cụ thể, giúp cho người học dễ nắm bắt. Mỗi bài gồm phần chính văn, phần dịch nghĩa và phần lược giải, rất cô đọng và dễ hiểu.

Bản dịch của cư sĩ Tâm Nguyên – Cao Hữu Đính hoàn tất vào năm 1983 và được NXB Thuận Hoá ấn hành vào năm 1996, với tựa đề “Luận Đại Thừa Khởi Tín.” Đây là bản dịch có phân tiết mục, phiên âm bản Hán, dịch nghĩa tiếng Việt và giải thích nghĩa lý từng phần, tiện cho người học tham khảo.

Ngoài ra, còn có bản dịch của TT. Thích Thiện Thông có phong cách giống với tác phẩm của HT. Thích Thiện Hoa và Cao Hữu Đính.

Mặc dù Khởi Tín Luận là bản tóm tắt quan trọng về triết lý Đại thừa, mà không học giảhành giả nào lại không lưu tâm, các bản dịch ngoài tiếng Anh cho đến bây giờ vẫn còn là điều hiếm thấy. Theo Suzuki, sở dĩ các nhà nghiên cứu phương Tây không quan tâm nhiều về Khởi Tín Luận là vì đây là bộ luận nền tảng về Đại thừa, mà Đại thừa theo họ là:

Chủ nghĩa hư vô, phủ định thượng đế, thần hồn, thế giới và tất cả. Một số người cho rằng Đại thừađa thần giáo . . . hoặc học thuyết nguỵ biện . . . trong khi đối với người phủ định Đại thừa từ gốc độ lịch sử cho rằng Đại thừa không phải là lời dạy chánh thống của đức Phật, mà chỉ là sự sáng tạo đơn thuần của Long Thọ. . . Hoặc có người cho rằng Đại thừa là sự hỗn hợp giữa thần học Ấn-độ vốn phát triển thoải mái trong giai đoạn mật tông với sự biến thái của những lời dạy về đạo đức cao quý trong Phật giáo nguyên thuỷ.[11]

Mặc dù bản nguyên tác không còn nữa, thông qua 2 bản dịch của các dịch giả Trung Quốc, chúng ta vẫn có thể truy nguyên các tư tưởnghọc thuyết về Đại thừa sơ khởi. Khởi Tín Luậntác phẩm tóm tắt rất đặc sắc về triết lý và siêu hình học Đại thừa. Tác phẩm này đã được hầu hết các tông phái Đại thừa nghiên cứuhành trì như một quyển sách gói đầu giường.

 III. CẤU TRÚC NỘI DUNG CỦA KHỞI TÍN LUẬN

Khởi Tín Luận (起信論; Śraddhotpāda Śāstra = phát khởi niềm tin) gọi đủ là Đại Thừa Khởi Tín Luận (大乘起信論; Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra) là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa. Trong tựa đề nguyên tác Sanskrit, có ba thuật ngữ được đề cập đến. 

Mahāyāna có nghĩa là đại thặng, thường quen đọc là đại thừa,[12] chỉ cho cỗ xe lớn, có khả chuyên chở cùng một lúc nhiều hành giả đến bến bờ giác ngộ tối thượng (vô thượng chánh đẳng chánh giác). Đây là con đường chuyển hoá rộng lớn của các bậc đại nhân hay đại sĩ, trên nền tảng của tình thương cứu độ vượt thoát khỏi ranh giới của thân sơ. Phương thức chuyên chở và cứu cánh của bờ bên kia là hai tiêu chí để xác lập đâu là cổ xe lớn và cổ xe thông thường còn lại. Đại thừa là cổ xe lớn, đáp ứng nhu cầu của nhiều căn cơ, có khả năng giúp cho nhiều người và nhiều loài được an vui và giác ngộ. Do đó, đại thừa là cổ xe của lòng vị tha, vô ngã và dấn thân phục vụ cộng đồng không mệt mỏi. Đại thừa thường được xác lập trên cái tâm từ bi vĩ đại đối với chúng sanhtrí tuệ bao la trong cách hoá độ; hoàn toàn không phải là thuật ngữ chỉ cho những vị sư theo truyền thống Nam tông hay Bắc tông hay hình thức ăn mặc của các vị sư trong hai truyền thống ấy.

“Khởi tín” là từ dịch sát nghĩa của tiếng Phạn là śraddhotpāda. “Pāda” trong ngữ cảnh này còn có nghĩa là “thiết lập,” “xây dựng,” hay “nền tảng.” “Śraddha” có nghĩa đen là “niềm tin,” với đối tượng không phải là thượng đến hay sự ban phước giáng hoạ, sự hên xui may rủi, mà là lòng xác quyết trước chân lý, và dĩ nhiên chân lý ở đây là lý đại thừa. Do đó, “khởi tín” có thể dịch là “thiết lập niềm tin,” hay “xây dựng niềm tin,” hoặc bóng bẩy hơn là “đánh thức niềm tin” (the awakening of faith) như bản dịch tiếng Anh của Suzuki và Timothy Richard.

“Luận” (śāstra) là thuật ngữ chỉ chung cho các tác phẩm Phật học của các vị tổ sư Phật giáo, giới thiệu một cách có hệ thống giáo nghĩa Phật dạy trong các kinh, hoặc chỉ cho một học thuyết Phật học do một vị luận sư hay tổ sư chủ xướng như một cách thức hiểu và hành trì Phật học, có ít nhiều liên hệ hoặc độc lập với các tác phẩm có trước, hay là một tác phẩm nhằm chiết phục các chủ thuyết của các tư tưởng gia ngoài đạo Phật, hay chỉnh đốn lại các học thuyết đã có trong PG.

“Đại Thừa Khởi Tín Luận” có thể được dịch là “Phát Khởi Niềm Tin về Đại Thừa” hay “Xây Dựng Niềm Tin về Đại Thừa” hay “Đánh Thức Niềm Tin về Đại Thừa.” Cần lưu ý ở đây rằng cụm từ “Đại thừa khởi tín” (mahāyāna śraddhotpāda) không nên dịch là “phát khởi niềm tin đại thừa,” mà là “phát khởi niềm tin về/đối với đại thừa.” Các bản chữ Hán dịch rất xác với bản Sanskrit là “khởi đại thừa chi tín” (起大乘之信 = phát khởi niềm tin về đại thừa) hoặc “đại thừa chi khởi tín (大乘之起信 = sự phát khởi niềm tin về đại thừa). 

HT. Thích Thiện Hoa dịch “đại thừa khởi tín” thành “phát khởi lòng tin đại thừa” trong đoạn sau đây: “Luận này làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa, nên gọi là “Đại thừa khởi tín.”[13] Cao Hữu Đính vì quá cố gắng o ép “đại thừa” thành “tâm đại thừa” nên đã dịch “đại thừa khởi tín” thành “phát khởi tín tâm Đại Thừa”[14] làm cho mạch văn trở nên tối nghĩa. HT. Thích Trí Quang đã đồng ý với quan điểm của Cao Hữu Đính, khi cho rằng: “Đại thừa khởi tín không có nghĩa nhiều rằng phát khởi đức tin đối với đại thừa, mà nghĩa chính là phát khởi đức tin đại thừa: đức tin tin cái Tâm đại thừa.”[15] Trên thực tế, tâm đại thừa chỉ là một trong những nội dung quan trọng của đức tin về đại thừa, không thể thay thế cho toàn bộ nội dung của đức tin về đại thừa được. 

Phần chính văn của Khởi Tín Luận ghi rất rõ: “khởi Đại thừa chi chánh tín” (起大乘之正信) tức “làm khơi dậy niềm tin về đại thừa một cách chân chánh.”[16] Cũng cần nói thêm rằng “phát khởi niềm tin đại thừa” có nội dung khác với “phát khởi niềm tin về/đối với đại thừa” vì trong mệnh đề đầu, niềm tin ở đây được hiểu là niềm tin đại thừa, khác với các niềm tin phi đại thừa. Như vậy, đại thừa trở thành tính từ bổ nghĩa cho danh từ niềm tin, chứ không nói lên được bản chất và nội dung của niềm tin này là gì mà được gọi là cổ xe lớn. Trong khi đó, trong mệnh đề “phát khởi niềm tin về đại thừa,” thuật ngữ “đại thừa” trở thành tân ngữ của động từ niềm tin, chỉ tin về đại thừa, chứ không tin theo bất kỳ cái gì khác ngoài đại thừa, và đại thừa ở đây làm cho niềm tin trở nên vĩ đại. Niềm tin về đại thừa tức tin vào giáo pháp cao siêu, có khả năng chuyển hoá nhiều người đạt ngộ, giải thoát khổ đau. 

Như vậy, bản chất của “đức tin đại thừa” đó là gì? Cao Hữu Đính đã dựa vào một đoạn văn trong bản dịch chữ Hán khẳng định rằng đó là niềm tin vào cái tâm bình thường ở mọi người và mọi chúng sinh có khả năng giúp cho chúng sinh có thể đi và đến như chư Phật: “Bốn chữ ‘Đại Thừa Khởi Tín’ phải được hiểu theo nghĩa đúng đắn của nó là: ‘phát khởi lòng tin vào chính cái Tâm bình thường ở ngay nơi mình. Từ cái Tâm bình thường đó, chúng sinh sẽ đi đến đất Phật, như Bồ tát đang đi và sẽ đến như chư Phật đã đến.”[17]

HT. Thích Trí Quang đã giải thích đức tin đại thừa trên nền tảng thể tướng dụng của tâm, vốn khác với các niềm tin tôn giáo thông thường:

Đức tin đại thừa là tin vào thể tướng dụng của Tâm. Tâm ấy vĩ đại, Tâm ấy đưa những bậc vĩ đại đạt đến vị trí vĩ đại. Đó là sự tự tín không phải như đức tin của tôn giáo thượng đế hay ý thức về ngã. Tin Phật, đấng thực chứng về tâm, khai thị tâm ấy, và hội trì để cho người khác cũng tin tưởngthực chứng được Tâm ấy, tin Phật như vậy, và đức Phật được tin như vậy, cũng là biểu hiện của đức tin đại thừa mà không có gì so sánh được.[18]

Thực ra, niềm tin về đại thừa trong Khởi Tín Luận không chỉ tin vào cái tâm vĩ đại, để đạt đến vị trí vĩ đại, mà là tin tất cả giáo nghĩa, học thuyết và sự hành trì đại thừa, được giới thiệu trong các Kinh luật đại thừa như Hoa Nghiêm, Mật Nghiêm, Thắng-man, Kim Quang Minh, Đại Tập, Lăng-già, Anh-lạc, Bát-nhã, Pháp Hoa và Niết-bàn.[19] Tác giả của KTLSKHD: 33, cho rằng các Kinh Luật nêu trên được xem là kinh điển nền tảng về đại thừa đã được ngài Mã Minh tóm tắt một cách cô đọng và súc tích trong Khởi Tín Luận

Các niềm tin về đại thừa này đã được trình bày một cách ngắn gọn nhưng vẫn sâu sắc, kèm theo đó là các phần quyết nghi, được trình bày dưới dạng tự vấn đáp. Các nội dung tiêu biểu nhằm xác lập niềm tin về đại thừa bao gồm

a) Thuyết nhất tâm cho rằng tâm chúng sinh và tâm Như Lai vốn không khác nhau về mặt chân lý tuyệt đối (chân đế); 

b) Thuyết nhị môn chủ trương rằng tâm có hai phương diện là tâm nhìn từ phương diện bản thể (tâm chân như môn) và tâm nhìn từ phương diện hiện tượng (tâm sinh diệt môn); 

c) Tam đại của tâm bao gồm ba cái lớn về mặt bản thể (thể đại), về mặt hình tướng (tướng đại) và về mặt hoạt dụng (dụng đại). 

d) Hai loại chân như (Bhūtatathatā) tức ly ngôn chân như (ngôn thuyết, danh từ và tâm duyên) và y ngôn chân như (như thật khôngnhư thật bất không).

e) Phân biệt tâm bất giác (gồm nghiệp tướng, chuyển tướnghiện tướng) và tâm giác ngộ (gồm thuỷ giácbản giác).

f) Bản chất đồng và dị của bất giácgiác ngộ cũng như của tất cả mọi sự vật hiện tượng.

g) Phân biệt tâm (tức a-lại-da = ālayavijñāna) với ý (tức năm ý: nghiệp thức, chuyển thức, hiện thức, trí thứctương tục thức) và thức (tức ý thức hay phân biệt sự thức).

h) Các huân tập nhiễm pháp (vô minh, vọng cảnh và vọng tâm) và huân tập tịnh pháp (huân tập chân như).

k) Học thuyết tam thân: pháp thân (tức chân như tự thể tướng hay như lai tạng Thatāgatagarbha), báo thân (tức nghiệp thức tâm sở hệ thức) và ứng thân (tức phân biệt sự thức sở kiến).

l) Phát khởi tâm bồ-đề qua ba phương diện: ngôn thành tựu phát tâm, giải hành phát tâmchứng phát tâm.

Khởi Tín Luận còn dạy hành giả về cách thiết lập tín tâm tu hành. Tín tâm ở đây là lòng tự tín về khả năng phá trừ chấp phápchấp ngãđức tin bất động đối với Tam Bảo. Tu hành ở đây bao gồm năm hạnh đầu trong lục độ (tỉnh lược độ thứ sáu là trí tuệ).

Các giáo nghĩa liên hệ đến niềm tin về đại thừa nêu trên sẽ được giải thích trong các phần liên hệ ở những bài học sau.

[1] Về sau viết tắt là Khởi Tín Luận.

[2] Oxford Dictionary of Buddhism, ed. By Damien Keown (Oxford University Press, 2003), p.168b: “No Indian original has ever been discovered, and it is now certain that the text is an apocryphal work of Chinese origin.”

[3] Tuyển tập các Kinh được gán cho Phật nói cũng như các tác phẩm không rõ tác giả và nội dung của nó có nhiều điểm còn nghi ngờ.

[4] Thao khảo thêm PQĐTĐ III: 2202.

[5] Đại 49: 99.

[6] Đại 32: 575.

[7] Còn được gọi là Kulanātha, được người Trung Hoa phiên âm là Ba-la-mạt-đà (波羅末陀) hay Câu-na-la-đà (拘那羅陀), và dịch nghĩa đen là Thân Y (親依) là người nước Ưu-thiền-ni (優禪尼; S. Ujjayana hoặc Ujjayini, nay là Oujein), thuộc Tây Ấn-độ. Ngài Chân Đế đến Trung Quốc vào năm 546 và mất năm 569, thọ 71 tuổi. Theo Suzuki (1900: 39), ngài dịch tác phẩm này vào ngày 10-9-554.

[8] Tham khảo PQĐTĐ III: 2203-6 để biết thêm chi tiết về tên các bản sớ giải và tác giả của chúng.

[9] Được người Trung Quốc dịch là Hỷ Học (喜學). Ngài là người thuộc nước Kusutana (Khoten), tịch vào năm 710, hưởng dương 59. Theo Suzuki (1900: 39), ngài dịch tác phẩm này vào ngày 08-10-700.

[10] Khởi Tín Luận Liệt Cương Sớ (起信論列綱疏).

[11] Asvaghosha’s Discourse On the Awakening of Faith in the Mahayana, tr. By Suzuki, (Asian Humanities Press: 1900), pp. xi-xii.

[12] Chữ Hán được sử dụng với hai tự loại. Nếu đọc là “thừa” sẽ trở thành động từ “cởi;” trong khi nếu đọc là “thặng” thì trở thành danh từ là “cổ xe.” Trong thuật ngữ大乘” chữ phải được đọc là “thặng” với nghĩa là “cổ xe lớn.”

[13] Thích Thiện Hoa., PHPT. (1992, quyển 3: 245).

[14] Cao Hữu Đính, LĐTKT. (1996: 9).

[15] Thích Trí Quang., KTL. (1995: 29). Các phần in nghiêng do chúng tôi nhấn mạnh.

[16] Nguyên văn bài kệ như sau: “Vị dục linh chúng sinh/ Trừ nghi, xả tà chấp/ Khởi Đại thừa chánh tín/ Phật chủng bất đoạn cố.” Tạm dịch là: “Vì giúp cho mọi loài/Dứt nghi, buông chấp quấy/Gieo niềm tin Đại thừa/Làm giống Phật không mất.”

[17] Cao Hữu Đính, LĐTKT. (1996: 18).

[18] Thích Trí Quang., KTL. (1995: 31).

[19] Tác giả của KTLSKHD: 33, cho rằng các Kinh Luật nêu trên được xem là kinh điển nền tảng về đại thừa đã được ngài Mã Minh tóm tắt một cách cô đọng và súc tích trong Khởi Tín Luận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11657)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11975)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11131)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11375)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12086)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12581)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10788)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18020)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11747)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9967)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10203)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12371)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15380)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11268)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14347)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12126)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15392)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12025)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12432)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11211)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12108)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10641)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12572)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13194)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14864)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12720)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16603)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19688)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13129)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12682)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12280)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11876)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10912)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13554)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11971)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11858)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11652)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12784)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14541)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12649)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15688)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13643)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12922)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9901)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18036)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11196)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9104)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12210)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13075)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10330)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12219)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15335)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16627)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12239)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11501)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14290)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19724)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14175)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24632)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10713)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant