Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Phần Giải Thích Giáo Nghĩa

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6682)
6. Phần Giải Thích Giáo Nghĩa

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
(大乘起信論; S. Mahāyāna Śraddhotpāda Śāstra)
Thích Nhật Từ
(Bài dạy tại lớp Cao Đẳng Phật học TP.HCM, khoá IV-2005)

BÀI 6
PHẦN GIẢI THÍCH GIÁO NGHĨA 

CHÂN NHƯ TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ

 

I. ĐẠI Ý

Từ góc độ bản thể, bản chất chân như vốn vượt lên trên sự mô tả của ngôn ngữ và biểu đạt. Từ góc độ ngôn ngữ, để thiết lập truyền thông và như một phương tiện giáo dục phá chấp, chân như có thể được trình bày qua hai phương diện phủ định và khẳng định một cách như thật. Mặc dù vay mượn và sử dụng ngôn ngữ biểu đạt nhưng phải hiểu rằng cả hai phương diện trên đều vượt khỏi thế giới phân biệt của ý thức nhị nguyênđối đãi.

II. NGUYÊN VĂN

Hai phương diện của chân như: Cũng cần nói thêm rằng nếu dựa vào sự phân tích[1] ngôn ngữ thì chân như có thể được trình bày qua hai phương diện. Một là “tính phủ định (không 空) một cách như thật,”[2] theo nghĩa, nó không hạn cuộc[3] trong các thuộc tính bất thật [của các sự vật], trên cơ sở đó, biểu thị thể chân thật (tức thể chân như)[4] một cách trọn vẹn.[5] Hai là “tính khẳng định (bất không 不空) một cách như thật,”[6] theo nghĩa, tự thể của nó chứa đủ các hạt giống công đức siêu thế.[7] 

Như thật không: Cái được gọi là “tính phủ định một cách như thật”[8] từ trong bản chất,[9] không hề bị ô hợp[10] với bất kỳ sự vật ô nhiễm nào.[11] Nghĩa là vượt lên trên các thuộc tính sai biệt của sự vật, vì không còn tâm niệm phân biệt sai lầm.[12] 

Nên biết rằng tự tánh của chân như chẳng phải là cái hiện hữu (phi hữu tướng), chẳng phải là cái không hiện hữu (phi vô tướng), cũng chẳng phải là cái “phủ định hiện hữu” (phi phi hữu tướng), lại càng chẳng phải là cái “phủ định cái không hiện hữu” (phi phi vô tướng) và cũng chẳng phải cái “vừa hiện hữu vừa không hiện hữu” (phi hữu vô câu tướng), chẳng phải là “đồng nhất” (phi nhất tướng), chẳng phải là “dị biệt” (phi dị tướng), chẳng phải cái “phủ định đồng nhất” (phi phi nhất tướng), chẳng phải cái “phủ định dị biệt” (phi phi dị tướng), chẳng phải “vừa đồng nhất vừa dị biệt” (phi nhất dị câu tướng). 

Nói tổng quát,[13] do vọng tâm nên tất cả chúng sinh thường xuyên phân biệt nhưng tất cả phân biệt đó đều không xác hợp[14] với chân như nên nói là “không.” Nếu hết vọng tâm thì thật cũng không có cái “tính không” để nói.[15]

Như thật bất không: Cái được gọi là “tính khẳng định (bất không) một cách như thật,” như đã trình bày, chính là thể của sự vật (pháp thể) vốn là “không,” không hề hư vọng; còn gọi là chân tâm tồn tại vĩnh hằng, đầy đủ các hạt giống thanh tịnh, nên gọi là “tính khẳng định” (bất không = có). Tính khẳng định đó cũng không có tướng trạng gì để nắm bắt, vì đã vượt ngoài thế giới phân biệt. Phải thực chứng mới có thể cảm nhận được điều này.[16]

III. NHẬN XÉT

Tiếp theo phần giải thích về bản chất của chân như vốn vượt lên trên ngôn ngữ, các phương tiện biểu đạt và các mặc định phân biệt, trong bản văn nêu trên, tổ Mã Minh giới thiệu về chân như qua hai phương diện của ngôn ngữ. Nói cách khác, dù bản chất chân như của mọi sự vật có thể được diễn tả một cách tương đối bằng ngôn ngữ nhưng phải hiểu ngôn ngữ mô tả đó không phải là chân như. Như vậy, hành giả có thể nương vào tướng của ngôn ngữ để chỉ bày một cách tương đối bản thể của chân như.

“Như thật không” chính là tự thể không của mọi sự vật hiện tượng. Như thật cũng chính là chân như. Như là trạng thái bình đẳng, không biến đổi. Thật là tính chất không sai lệch. Chân như từ phương diện “như thật không” vốn không ăn nhập gì với tất cả sự vật hiện tượng nhiễm ô, lại cũng không dính líu gì đến hình thái hay tính chất sai biệt của sự vật hiện tượng. Bởi vì trong giai đoạn này, hành giả đã không còn thái độ nhận thức phân biệt nhị nguyên. Các phân biệt nhị biên đối đãi chỉ làm cho thế giới hiện tượng vốn sai biệt lại càng sai biệt hơn, vốn phức tạp lại càng phức tạp hơn, đồng thời tạo ra ranh giới phân biệt đối xử trên nền tảng của bản ngã liên minh, bản ngã quốc gia, bản ngã cộng đồngbản ngã cá thể. Ranh giới bản ngã này tuy vô hình nhưng lại có sức tàn phá nguy hại đến tiến trình hoà hợp và hoà giải trong tất cả các mối quan hệ và đối tác.

Khởi Tín Luận đã nêu ra hai loại bốn mệnh đề (tứ cú) của triết học nhị nguyên nhằm khẳng định rằng chân như của mọi sự vật vốn không lệ thuộc, không bị hạn cuộc, và không có liên hệ gì đến bốn mệnh đề đó. Bốn mệnh đề thứ nhất được mệnh danh là bốn mệnh đề có không (hữu vô tứ cú), bao gồm: mệnh đề có, mệnh đề không có, mệnh đề vừa có vừa không, mệnh đề chẳng có chẳng không; và bốn mệnh đề một khác (nhất dị tứ cú): đồng nhất, dị biệt, vừa đồng nhất vừa dị biệt, chẳng phải đồng nhất chẳng phải dị biệt. Hai loại bốn mệnh đề trên xoay quanh hai quan điểm chínhthường kiến (có; đồng nhất) và đoạn kiến (không có; dị biệt). Chân như của sự vật hiện tượng vốn không hạn cuộc vào trong bất kỳ mệnh đề nào trong các mệnh đề trên. 

Các triết phái và tôn giáo trên thế giới, xưa cũng như nay, đều đặt trên nền tảng của chủ trương hoặc hiện hữu, hoặc không hiện hữu, hoặc đồng nhất hoặc dị biệt. 

Các học thuyết về thế giới quan và nhân sinh quan cho rằng có tính thực thể hay bản ngã thường hằng, bất biến trong mọi sự vật, đều thuộc về chấp hữu hay chấp thường. Các quan điểm hữu kiến hay thường kiến sẽ kéo theo các chủ nghĩa định mệnh và thần ý luận vĩnh viễn hay ngẫu nhiên vĩnh viễn

Các học thuyết về thế giới quan và nhân sinh quan cho rằng không còn hiện hữu tồn tại sau khi sự vật đến giai đoạn hoại diệt, đều thuộc về chấp không hiện hữu hay chấp đoạn. Các quan điểm chấp đoạn sẽ kéo theo các chủ nghĩa duy vật hưởng thụ, thiếu trách nhiệm đạo đức đối với hành vichức nghiệp mà mình theo đuổi

Các quan điểm đồng nhất và dị biệt cũng tồn tại theo cơ chế chấp trước tương tự. Trong thế giới hiện tượng thiên sai vạn biệt, mọi sự vật hiện tượng luôn luôn thay đổi không dừng, cái thuộc ngày hôm qua đã không đứng yên một chỗ, vận động, biến thiên và cái của ngày hôm nay rồi sẽ trở thành quá khứ. Cứ như vậy tiếp tục trôi chảy bất tận. Ấy thế mà, có học thuyết lại cho rằng thế giới hiện tượng không hề biến chuyển, vẫn giữ nguyên tính chất đồng nhất của nó. 

Tương tự, trong bản thể của chân như, mọi sự vật hiện tượng có thể biến thiên theo cách này hoặc cách khác, nhưng thể của nó không tách rời vĩnh viễn giữa cái quá khứ, cái hiện tại và cái vị lai, có mối quan hệ hỗ tương nhân quả, không tách rời khỏi nhau. Cái không sai biệt đó khẳng định rằng dù trong con người vô ngã không thực có chủ thể tạo tác và cảm nhận nhưng các hành vi tác tạo đó vẫn tiếp tục tồn tại với tác giả duyên khởi từ đời này sang đời khác, đến độ đã góp phần tạo thành nhân cách không khác biệt vĩnh viễncon người hay sự vật.

Các nhãn quan có không, nhất dị đều là thiên kiến, như tình trạng của các anh mù, đánh đồng các chi phần của con voi như chân, mình, đuôi, vòi là toàn thể con voi. Tính chất có, không, một, khác chỉ là những biểu hiện tuỳ duyên trong thế giới hiện tượng. Vì là tuỳ duyên trong thế giới hiện tượng nên các biểu hiện đó chỉ có giá trị chân trí trong thế giới sinh diệt, nhưng lại hoàn toàn vô nghĩa trong thế giới chân như. Nói một cách khác, không thể đánh đồng hiện tượng sinh diệt với bản thế chân như bất biến.

“Như thật bất không” là phương diện thứ hai của chân như được biểu đạt trong mối liên hệ với ngôn ngữgiá trị. Trên nguyên tắc, thể của mọi sự vật hiện tượngkhông tính, tức tính không thực thể. Chân tâm thường trú của con người cũng như vậy. Chân tâm thường trú cũng giống như vàng. Nếu vàng không hề bị mất bản chất vàng trong các trang sức phẩm vàng, như xuyến, giây chuyền, cà rá và trang sức phẩm khác, chân tâm bất biến đó cũng không bao giờ bị tăng giảm thật trong thế giới sinh diệt của luân hồi. Trong chân tâm đó vốn có chứa đủ các công đức thuộc về vô lậuxuất thế gian. Mặc dù trong quá trình sinh tử, con người và các loài hữu tình đã từng sống với tâm thức chứa đầy các hạt giống tiêu cựctích cực, tốt và xấu, phàm và thánh, nhưng chất liệu tích cực tuyệt đối ấy vẫn sáng ngời

Trong quá trình sinh tử nhiều đời kiếp về trước, tâm vọng niệm phân biệt của phàm phu đã làm cho chân tâm thường trú bị phủ trùm, giống như mặt trời bị mây mù che phủ. Một khi tâm vọng niệm phân biệt được chuyển hoá tận gốc rễ, lúc bấy giờ, vô lượng công đức xuất thế sẽ xuất hiện. Con người nhờ đó, sống trong an lạc

Thế giới “bất không” của chân như đó là cảnh giới ly niệm. Chỉ khi nào hành giả thực chứng được chân như mới có thể hiểu rõ được bản chất của nó là gì.

IV. CHÚ THÍCH THUẬT NGỮ

tính phủ định một cách như thật: Hán dịch là “như thật không” (如實空 - Lương dịch) hoặc “chân thật không” (真實空 - Đường dịch). Đây là phương thức trình bày bản chất chân như bằng tính phủ định những cái không phải hoặc không bao hàm được nội dung của chân như. Theo công thức này, những gì không thuộc về bản chất và nội dung của chân như sẽ được loại trừ từ từ, cho đến lúc tất cả những cái phi chân như được loại trừ hết thì hành giả sẽ tuệ tri được bản chất của chân như là gì. 

Trọng tâm của công thức mô tả này nằm ở sự loại trừ một cách như thật, chứ không phải loại trừ cảm tính và tuỳ tiện. Ngay cả công cụ ngôn ngữphương pháp biểu đạt phủ định nhằm hiển lộ chân như cũng chỉ được quan niệm là một phương tiện thiện xảo, chứ không phải bản thân của chân như

Phủ định những cái không phải là chân trong thế giới hiện là cách mô tả tốt nhất để giúp cho hành giả có thể nhận diện được mặt mũi thật của bản chất chân như trong lòng thực tại

Chân như đó không thuộc về hiện hữu (hữu), không thuộc về phi hiện hữu (phi hữu), không thuộc sự tổng hợp cả hai (hữu phi hữu câu) và không thuộc sự phủ định cả hai (phi hữu phi phi hữu). Chân như đó cũng không hạn cuộc trong các mô tả đồng nhất, dị biệt, vừa đồng nhất vừa dị biệt, hay chẳng phải không đồng nhất.

tính khẳng định một cách như thật: Hán dịch là “như thật bất không” (如實不空 - Lương dịch) hoặc “chân thật bất không” (真實不空 - Đường dịch). Đây là phương thức trình bày bản chất chân như bằng tính phủ-phủ định để nhằm khẳng định mặt mủi thật của chân như. Đó là tính chất “không thực thể” (không) như là bản thể của mọi sự vật hiện tượng. Chân như trong trường hợp này chính là chân tâm thường trú, tồn tại vĩnh hằng trong thế giới sinh diệt vốn có nhiều biến thiên, tuỳ thuộc vào điều kiện. Chân tâm thường trú này chứa đựng tất cả các hạt giống tích cực, thuần thiện và thanh tịnh. Cũng nên lưu ý rằng mặc dù vận dụng cách biểu đạt phủ phủ định để khẳng định chân nhưchân tâm nhưng phải ngầm hiểu tính chất khẳng định bằng phủ phủ định đó không phải là một thuộc tính, không có các tướng trạng gì để bám víu, vì bản chất của nó vốn không bị hạn cuộc trong thế giới sinh diệt của hiện tượng. Trạng tháicảnh giới này chỉ có những người thực chứng mới cảm nhận được hết.

từ trong bản chất: Hán gọi là “tùng bản dĩ lai” (從本已來). Tức cách thức nhận địnhđánh giá sự vật và vấn đề dựa trên phương diện bản thể của sự vật và vấn đề đó, chứ không căn cứ vào các biểu hiện đa dạng và sai biệt của thế giới hiện tượng. Tiếp cận sự vật từ trong bản chất sẽ giúp cho người quan sát hiểu được một cách toàn diện về một sự vật, theo đó, vượt thoát các cái nhìn thiển cận, phiến diện, và nhờ đó, tránh được các sai lầm nghiêm trọng trong ứng dụng sự vật.

không tương ưng (Hán: 不相應): Tình trạng không ăn khớp, không tương thích, không thống nhất giữa hình thức biểu đạt và nội dung được biểu đạt, hoặc tình trạng không thích ứng giữa sự biểu hiện sinh diệt trong thế giới hiện tượng của một sự vật với bản thể của nó trong thế giới chân như. Các biểu đạt không tương ứng đều thuộc về phi chân thật

tâm phân biệt (Hán: 分別心). Tâm nhận thức sự vật dưới góc độ của thế giới hiện tượng với sự thiên sai vạn biệt của mọi sự vật hiện tượng. Tâm phân biệt bao gồm các đánh giá, phán đoán, loại suy, quy nạp, tổng hợp trên cơ sở của nhị nguyênđối đãi. Tâm phân biệt chính là tâm phân tích sự vật một cách chủ quan, nên dễ tách rời bản chất của sự vật. Khởi Tín Luận gọi tâm phân biệt này là tâm phân biệt hư vọng (虛妄分別心) hoặc còn gọi là tâm niệm hư vọng (虛妄心念), ý nói thái độnhận thức phân biệt nhị nguyên trong thế giới hiện tượng đều rơi vào sự sai lầm

hữu (Hán: 有): 1) Một trong bốn mệnh đề của triết học nhị nguyên và là dữ liệu quan trọng của tâm phân biệt, đối đãi: a) Có hay tính khẳng định, đối lập với chữ vô, tức không có hay tính phủ định. b) Hiện hữu, đối lập với vô hữu tức không có hiện hữu. Hiện hữu theo đạo Phật là một thực thể vô ngã, hay một thực thể không có thực thể cố định, bất biến. 2) Trạng thái tồn tại của con người trong quy trình sinh tử 12 nhân duyên hay nhịp nối quan trong tình trạng một người vừa qua đời và sự tái sinh của người đó trong tương lai. Nơi nào có sự tồn tại sự sống nơi đó tiếp tục có sự tái sinh. 3) Cảnh giới hiện hữu hay tái sinh của các loài có tình thức. Ví dụ tam hữuba thế giới. Các học thuyếtquan niệm hữu sẽ có thể dẫn đến thường kiến, đánh đồng tính chất biến thiên của sự vật thành sự bất biến, cố định. 

vô (Hán: 無): 1) Một trong bốn mệnh đề của triết học nhị nguyên và là dữ liệu quan trọng của tâm phân biệt, đối đãi: a) không có hay tính phủ định, đối lập với chữ hữu, tức có hay tính khẳng định. b) không hiện hữu, đối lập với hữu tức có hiện hữu. 2) Sự không hiện hữu: Quan niệm về không hiện hữu theo đạo Phật là một học thuyết sai lầm khi cho rằng thực thể vô ngã của sự vật hiện tượng sẽ mất đi vĩnh viễn khi sự hiện hữu của nó đến kỳ kết thúc

hữu vô (Hán: 有無俱相): Một trong bốn mệnh đề quan trọng của triết học nhị nguyên, cho rằng vừa hiện hữu vừa không hiện hữu, hay vừa có vừa không có chính là thực thể của mọi sự vật hiện tượng. Học thuyết này phủ định 2 tình huống: a) đã là A thì không thể là B, b) Nếu không A thì buộc phải là B, và lập lên tình huống bao hàm có và không có trong cùng một sự vật. Theo Phật giáo, nếu quan niệm về hữu dẫn đến thường kiếnquan niệm vô dẫn đến đoạn kiến thì “vừa có vừa không” không phải là con đường trung dung mà là con đường nhị nguyên tổng hợp. Đây là cách khẳng định bằng cách gộp các đối lập vào nhau. 

phi hữu phi vô (Hán: 非有無俱 hay 非有非無): Một trong bốn mệnh đề quan trọng của triết học nhị nguyên, cho rằng chẳng phải hiện hữu và chẳng phải không hiện hữu, chính là thực thể của mọi sự vật hiện tượng. Học thuyết này đối lập với thuyết vừa có vừa không” và phủ định luôn cái có và không có đơn lẽ. Đây là cách phủ định sự vật bằng cách phủ định đôi về tính có và không có của sự vật đó.

đồng nhất và dị biệt (Hán: 一異): Tính chất thống nhất trước sau và sai biệt trong thế giới hiện tượng. Quan niệm đồng nhất cho rằng sự vật không thay đổi hình thức và nội dung trong quá trình biến thiên của thời giankhông gian, nên dễ dẫn đến thường kiến. Quan niệm dị biệt ngược lại cho rằng không có tính tiếp nối trong một sự vật trong các thời điểm khác nhau, nên dễ rơi vào tình trạng chấp nhận đoạn kiến. Nhà Phật cho rằng mọi sự vật hiện tượng có mối quan hệ nhân quả tương thuộc. Do đó, một sự vật trong hai thời điểm của sự biến thiên và phát triển không thể là một, không phải là sai khác. Theo Khởi Tín Luận, chân như của sự vật vốn hạn cuộc trong đồng nhất, dị biệt, vừa đồng nhất vừa dị biệt và chẳng phải đồng nhất chẳng phải dị biệt, và lìa tất cả mọi mặc định áp đặt vào chúng.

[1] Lương: “phân tích” (分別).

[2] Lương: “như thật không” (如實空); Đường: “chân thật không” (真實空). 

[3] Lương = Đường: “viễn ly” (遠離).

[4] Lương: “hiển thật” (顯實): Đường: “hiển thật nghĩa” (顯實體).

[5] Toàn câu dựa vào bản Đường, hơn là bản Lương: “cứu cánh viễn ly bất thật chi tướng, hiển chân thật thể cố” (究竟遠離不實之相顯實體故).

[6] Lương: “như thật bất không” (如實不空); Đường: “chân thật bất không” (真實不空).

[7] Lương: “dĩ hữu tự thể cụ túc vô lậu tính công đức cố” (以有自體具足無漏性功德故). Đường: “bản tính cụ túc vô biên công đức hữu tự thể cố” (本性具足無邊功德有自體故).

[8] Lương ghi đơn giản là: “sở ngôn không giả” = cái gọi là không (所言空者); Bản Đường ghi rõ hơn: “chân thật không giả” (真實空者).

[9] Lương = Đường: “tùng bản dĩ lai” (從本已來).

[10] Lương: “không tương ưng” (不相應).

[11] Lương = Đường: “tùng bản dĩ lai nhất thiết nhiễm pháp bất tương ưng cố” (從本已來一切染法不相應故).

[12] Lương: “dĩ vô hư vọng tâm niệm cố” (以無虛妄心念故). Đường: “vô hữu hư vọng phân biệt tâm cố” (無有虛妄分別心故).

[13] Lương: “tổng thuyết” (); Đường: “lược thuyết” () đều có nghĩa là “nói bao quát.”

[14] Lương: “bất tương ứng” (不相應). Đường: “chân như là cái không thể tiếp xúc được” (所不能觸, sở bất năng xúc).

[15] Lương: “nhược ly vọng tâm thật vô khả không cố” (若離妄心實無可空故). Bản Đường dịch rõ nghĩa hơn: “dựa vào nguyên lý chân thật, vọng niệm vốn không có cho nên tính không cũng không luôn” (據實道理。妄念非有。空性亦空).

[16] Lương: “duy chứng tương ưng” (唯證相應) có nghĩa đen là “chỉ có tương thích với sự thực chứng” hay nói cách khác, chỉ có trong trạng thái chứng đắc con người thật sự mới cảm nhận được.” Đường dịch: “[đó là trạng thái lìa tâm phân biệt, và chính là cảnh giới chứng nghiệm của trí tuệ” (唯離念智之所證故). 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11670)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11995)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11138)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11384)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12097)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12589)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10799)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18028)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11754)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9979)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10212)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12384)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15391)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11275)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14361)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12144)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15411)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12039)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12450)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11224)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12128)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10657)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12579)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13204)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14874)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12735)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16613)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19716)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13145)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12690)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12297)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11902)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10932)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13564)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11985)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11880)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11668)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12793)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14562)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12660)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15699)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13657)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12931)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9909)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18045)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11213)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9111)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12217)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13089)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10342)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12231)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15348)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16646)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12252)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11517)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14305)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19748)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14199)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24656)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10721)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant