Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thay Lời Kết

16 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 7113)
Thay Lời Kết

NGUYÊN NGUYÊN
Dịch giải
KIM CANG
DIỆU CẢM

THAY LỜI KẾT

  Bạch Thế Tôn,

 Mở đầu, để thay lời giới thiệu bài kinh Kim Cang tôn quý, con có ghi ra một trích đoạn trong Đàn Kinh, trong đó có câu :

 Đương tri thử kinh công đức vô lượng vô biên... 

 ( Đàn Kinh, Phẩm Bát-nhã )

 Công đức đó cụ thể như thế nào ?

 Chính Tổ Huệ Năng đã nói rõ : do một lần tình cờ nghe người ta tụng kinh nầy mà được khai ngộ !

 Huệ Năng nhất văn kinh ngữ tâm tự khai ngộ.

(Huệ Năng vừa nghe lời kinh mà tâm liền bừng sáng.)

 ( Đàn Kinh, Phẩm Tự tự )

 Sự bừng sáng đó càng tỏ rõ, khi tại tu viện Hoàng Mai, Tổ được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn nói kinh cho nghe và đã đại ngộ khi nghe đến câu :

Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.

( Nên sinh tâm ở chỗ không thể bám víu được.)

 Đại ngộ như vậy, bừng sáng như vậy, Tổ đã thấy gì ?

 Tổ đã thấy cái chân lý cơ bản là :

Nhất thiết vạn pháp bất ly Tự Tánh..

( Vạn pháp nhất nhất đều không rời Tự Tánh.)

 Cái tâm bừng sáng trong trạng thái diệu cảm. Thật xúc động , Tổ bạch cùng Ngũ Tổ , nói lên cái thấy của mình :

 Nào ngờ Tự Tánh vốn tự nhiên thanh tịnh ;

 Nào ngờ Tự Tánh vốn không sinh diệt ;

 Nào ngờ Tự Tánh vốn tự nhiên đầy đủ ;

 Nào ngờ Tự Tánh không hề dao động ;

 Nào ngờ Tự Tánh có khả năng sinh ra vạn pháp.

 ( Đàn Kinh, Phẩm Tự tự )

 Tổ được khai ngộ«thấy Tánh » như vậy. Mà khai ngộ cho Tổ là do công đức của câu kinh :

Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm !

 Bạch Thế Tôn,

 Con nay hiểu rằng qua câu kinh đó Thế Tôn đã dạy về tâm pháp không chấp ».

 Con nay cũng biết ra rằng kẻ vẫn thường thường bám chấp đó là một dạng của tâm. Có người gọi đó là cái “tâm phân biệt”.

 “Tâm phân biệt” là gì? Đó là thứ tâm mà « thế đế », hay « tục đế » từ đó mà sinh ra.

 . “Tâm phân biệt” có tính năng cơ bản là phân biệt hai bên, từ đó mà hình thành những cặp đối lập như là tốt/xấu, đúng/sai, thiện/ác, cao/thấp, sang/hèn, giàu/nghèo,…

 Nó chấp sự phân biệt đó, để rồi “thủ xả”_ tức là bám lấy cái được xem là tốt, xua đuổi cái được xem là xấu.

 . “Tâm phân biệt” cũng tạo ra những công cụ cho sự vận động của nó. Đó là những “khái niệm”. Rồi liên kết những khái niệm với nhau thì gọi là “tư tưởng”.

 Những “khái niệm”, cho dù có phần phản ánh sự vật, nhưng chúng đồng thời cũng giống như những lăng kính làm biến dạng “sự vật-như-chúng-là”. Và “tư tưởng” thì cũng thế.

 Bạch Thế Tôn,

 Trong dân gian vốn có thành ngữ: “Mua trâu vẽ bóng”. Ấy là căn cứ vào hình vẽ của con trâu mà mua nó. Không trực tiếp xem con trâu đó bằng xương bằng thịt. Tức là không tự mình đến bên con trâu để thấy con trâu như- nó-là!  Tiếp cận mọi vật /việc qua khái niệm là một kiểu “mua trâu vẽ bóng” vậy!

 Trong đoạn 31, Thế Tôn đã đã cảnh giác về cái bệnh chung của loài người có nguồn gốc từ vô thủy đó. Gọi đó là “sinh pháp tướng”:

 … Ư nhất thiết pháp ưng như thị tri,như thị kiến,như thị tín giải,bất sinh pháp tướng.

(… Đối với mọi vật / việc, nên bằng cách đó mà biết, mà thấy, mà tin, chớ sinh pháp tướng.)

 ( Kim Cang, Đoạn 31 )

 “Chớ sinh pháp tướng” có nghĩa là không để cho những khái niệm che lấp sự vật như-chúng-là vậy.

 Những khái niệm đó làm cho sự vật bị biến hình vì những “ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến”. Tức là những thiên kiến vậy!

 Với sự vật như-chúng-là thì “nhục nhãn” không thấy được; cái nó thấy thì là thấy qua lăng kính biến dạng của những khái niệm .

 . “ Tâm phân biệt” cũng tạo ra thứ khuôn khổ cho sự vận động của nó. Ấy là “thời gian”, gồm quá khứ, hiện tại, vị lai.

 Có thể thấy rất rõ: quá khứ là cái đã qua rồi; vị lai là cái chưa thực sự xảy ra. Cả hai đều là hư vọng.

 Hiện tại trong thế giới tâm thì cũng là hư vọng. bởi vì đó là thứ hiện tại đầy ắp hoài niệm về quá khứ và là thứ hiện tại chồm về phía trước, với biết bao là dự phóng về tương lai!

 Nói tóm lại thì “thời gian”  là hư vọng, bởi vì đó là sản phẩm của cái “tâm phân biệt”!

 Bạch Thế Tôn,

 Thật may mắn làm sao, ngoài cái tâm phân biệt kia chúng con còn có “tâm thiền định”. Đó là cái tâm từ đó chúng con có thứ mà Bồ Tát Long Thọ gọi là “chân đế”, tức là có thứ tri kiến về “sự vật như-chúng-là.” Tâm nầy vốn ẩn vi, mà chúng con đã nhờ những bậc giác ngộ chỉ ra.

 Con nay biết rằng “tâm thiền định” không vận động trong khuôn khổ thời gian. Nếu tạm nói rằng nó vận động trong hiện tại thì đó là thứ hiện tại mỏng tanh! Mỏng như một sát-na. Đó là thứ hiện tại không có thời gian tính! Xin được gọi đó là cái “hiện tiền”.Vậy là “tâm thiền định” thức động trong “hiện tiền”.

 Với “tâm thiền định” thì không có thời gian, do đó mà không có sinh cùng diệt. Cũng là “vô sở trụ”, tức là không có chỗ để bám víu.

 “Tâm thiền định” cũng không vận dụng các khái niệm. Vạn pháp thị hiện như-chúng-là, tức là thông với Tự Tánh. Như Lục Tổ Huệ Năng đã thấy:

Nhất thiết vạn pháp bất ly Tự Tánh.

 Một cách cụ thể thì với “tâm thiền định” Thiền giả cũng nghe. Như nghe tiếng chim kêu. Tuy vậy tiếng chim nầy không giống với tiếng chim vẫn thường nghe. Tiếng chim nầy là một thị hiện trong sát-na hiện tiền.

 Và Thiền giả cũng thấy. Như thấy trăng lên. Nhưng đây cũng không phải là trăng vẫn thường thấy. Trăng đây là sự thị hiện trong sát-na hiện tiền của Tự Tánh huyền nhiệm. Như một Thiền giả nọ đã thấy và đã viết nên một câu đẹp như gió mát, đẹp như trăng thanh:

Hốt phùng thiên đễ nguyệt.

( Chợt thấy trăng lên ở chân trời.)

 Ấy là thấy Tánh đó chăng? Hoặc là thấy Tánh tướng không-hai đó chăng?

 Nguyện cầu quý hành giả có duyên may được nghe tiếng chim kêu như vậy, hoặc thấy trăng lên như vậy!

 Hoặc là thấy trúc xanh theo cùng cách như vậy, hoặc là thấy hoa vàng theo cùng cách như vậy!

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14853)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11932)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12836)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10431)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12143)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15372)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11180)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10617)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12539)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16521)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14408)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11867)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14885)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12118)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16955)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11643)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12797)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11418)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12151)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52355)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15563)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14050)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11498)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13252)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12868)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13317)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 18005)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12543)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12735)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54309)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14501)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 10003)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13887)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58185)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14583)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20249)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13878)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15488)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17592)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13374)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11966)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13555)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14726)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12565)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12202)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12123)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13349)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12614)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13720)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13394)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25728)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12236)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14633)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11919)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42157)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28437)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38913)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14803)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12788)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16337)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant