Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Di Giáo dịch thơ

17 Tháng Chín 201000:00(Xem: 27284)
Kinh Di Giáo dịch thơ

Kinh Di Giáo

Thành Tâm-Phan Khắc Nhượng dịch thơ



Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc,

Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh,

Kiều-trần-như được duyên lành,

Năm anh em họ viên thành lý chân,

Suốt đời sống xa gần phổ độ,

Người cuối cùng Phật độ chính là,

Ông già Tu-bạt-dà-la.

Ở rừng cây những Sa-la ngát vùng,

Người đáng độ đã từng được độ,

Đã đến hồi Phật bỏ sắc thân,

Niết bàn thế nhập xuất trần,

Nửa đêm yên ắng lặng tăm khắp trời.

1. Phật lên tiếng ra lời cốt lõi,

Để môn đồ mỗi mỗi soi đi,

Phật rằng: Này các tăng ni,

Sau tôi nhập diệt, nhớ ghi mấy điều:

Coi giới tựa người nghèo được của,

Như tối mù, mở cửa sáng ra,

Phải coi giới luật như là,

Người thày chỉ lối, khỏi sa lạc đường.

Giống như thể ta đương tại thế,

Phật ra đời cốt để vậy thôi,

Phải luôn giữ giới chớ rời:

Mướn người, buôn bán, chăn nuôi, chớ làm.

Chớ thu vén mùa màng, nhà cửa,

Chớ đua đòi tiền của nhân gian,

Chặt cây diệt cỏ chớ làm,

Chiêm tinh bói toán lại càng nên xa.

Chớ xem tướng hoặc là xem đất,

Luôn giữ mình chừng mực uống ăn,

Việc đời chớ thích để tâm,

Chú bùa, phụ nữ thân gần không nên.

Phải tâm niệm đoan nghiêm chánh trực,

Phải mong sao cho được độ mình,

Lỗi lầm che dấu không nên,

Chớ bày phép lạ cầu tin nơi người.

Với cúng thí biết vui vừa đủ,

Vật cúng dường tích trữ nào nên,

Đó là đôi chuyện giới nghiêm,

Cội căn giải thoát tự nền giới ra.

Giữ giới được mới qua thiền định,

Giới khơi dòng trí tuệ thâm uyên,

Khả năng diệt sự não phiền,

Nên cần mọi sự giữ gìn sạch trong.

Người phá giới đừng hòng công đức,

Giới là nơi công đức gửi vào,

Là nơi yên ổn hàng đầu,

Mọi điều công đức vin vào náu nương.

Các tăng ni, phải luôn thọ giới,

Năm căn cần giữ khỏi buông lung,

Giống như trâu phải canh chừng,

Cầm roi chớ để trâu ruồng lúa ai.

Như ngựa dữ không nài cương chặc,

Hẳn đưa người xuống vực chẳng chơi;

Cướp kia gieo khổ một thời,

Năm căn gieo họa bao đời ai hay.

Biết rõ mối nguy tai trầm trọng,

Chẳng thể không cẩn thận giữ gìn;

Với người trí tuệ nghiêm minh,

Năm căn đâu dễ xui mình chiều theo.

Giữ giới tựa giữ điều giặc dã,

Không thể nào buông thả được đâu;

Dù cho thỏa mãn cách nào,

Năm căn: (năm cửa) bao lâu mà còn.

Năm cửa bởi vọng lòng làm chủ,

Các ông nên khéo giữ vọng lòng;

Vọng lòng đáng sợ vô cùng,

So cùng nọc rắn miệng hùm khác chi.

Dẫu giặc lửa dễ gì sánh kịp,

Như người cầm chén mật mà đi,

Chăm chăm sợ đổ chứ gì,

Dưới chân nào biết một khi có hầm.

Như voi dữ phải cần móc sắt,

Nếu không thì hết sức hiểm nguy,

Giống như vượn khỉ khác chi,

Được cây chuyền bám dễ gì yên chân.

Giữ lòng an định rất cần,

Việc lành dù mấy khó khăn cũng thành.

Với thức ăn khi mình nhận được,

Phải coi dường uống thuốc vậy thôi,

Chẳng gì dở miệng ngon mùi,

Thứ ngon không thích dở thời không chê.

Miễn sao được khỏi bề đói khát,

Miễn sao là thể xác không nguy,

Miễn sao yên dạ tu trì,

Như ong hút mật chẳng hề hại hoa.

Chẳng phương hại sắc hoa tươi đẹp,

Tăng ni khi thọ thực cúng dường,

Cốt trừ khổ não tai ương,

Cầu nhiều phương hại lòng thương người đời,

Giống như thể những người trí tuệ,

Chẳng khiến trâu kiệt quệ làm nhiều.


Nghe đây hỡi các tăng ni,

Siêng năng tu tập thường đi pháp lành.

Đem năm canh giữ mình chớ bỏ,

Tụng kinh hầu tránh ngủ nửa đêm.;

Chớ vì ngủ nghỉ lãng quên,

Để đời vô ích êm đềm trôi luôn.

Hãy nhớ lửa vô thường đương đốt,

Hãy mau mau cứu vớt lấy mình,

Chớ ham ngủ nghỉ thường tình,

Não phiền rình rập giết mình như không.

Như kẻ thù vô cùng nguy hiểm,

Phải luôn luôn thức tỉnh đề phòng;

Não phiền rắn độc tương đồng,

Hiện đang ngủ nghỉ trong lòng các ông.

Nhà có rắn phải dùng móc sắt,

Móc giới vào đuổi phứt chúng đi.

Rắn ra ngủ mới yên bề.

Rắn còn mà ngủ còn chi thẹn bằng.

Biết thẹn tựa áo quần trang phục,

Cốt che người cho được trang nghiêm;

Khác nào móc sắt câu liêm,

Trị điều phi pháp đừng liên lụy mình.

Vậy tăng ni phải nên biết thẹn,

Mới mong lìa bất thiện dễ duôi,

Bỏ lòng biết thẹn ra rồi,

Bao nhiêu công đức đồng thời tiêu ma.

Có pháp lành chẳng qua biết thẹn,

Không thẹn thì thú vật khác chi.

Tăng ni ! Nếu kẻ nào vì,

Có gì xúc phạm có gì nhiễu nhương.

Ngay cả bị tổn thương thân thể,

Hãy kềm lòng chớ để hờn căm,

Lửa hờn đốt cháy thiện căn,

Giữ gìn không để nói năng độc mồm.

Lòng chớ để nổi cơn tức bực,

Khiến cho nhiều công đức tiêu tan.

Giới trì khổ hạnh đâu bằng,

Người từng nhẫn nhục thượng nhân đáng hàng.

Ai chưa thể vui cam nhẫn nhục,

Chịu miệng đời ác độc dồn cho,

Coi dường uống nước cam lồ,

Chưa là trí tuệ hống hồ thánh nhân.

Vì tức giận muôn phần nguy hại,

Phá căn lành hủy hoại lòng từ,

Đời này đời trước chẳng trừ,

Giận hờn còn giữ bao giờ vui đâu.

Biết tức giận khác nào lửa dữ,

Phải thường xuyên gìn giữ khỏi lòng.

Giặc ruồng công đức sánh cùng,

Do thì sân hận vẫn còn hơn xa.

Người thế tục chưa xa dục lạc,

Nên giận hờn còn được thứ tha;

Là người hành đạo xuất gia,

Đã rời dục lạc vậy mà hận sân;

Người như vậy thực tâm không đặng,

Có khác gì trời tạnh mây quang,

Bỗng dưng sấm động sét vang,

Rõ ràng chẳng xứng với màn trời xanh.

Này tăng ni ! muốn mình thành Phật,

Bỏ cửa nhà trang phục xuất gia;

Khoác vào chiếc áo cà-sa,

Mong cầu khắp nẻo gần xa cúng dường.

Chớ có ý đương đương tự đắc,

Cao ngạo gì cũng dứt nó đi,

Xuất gia vào đạo rồi thì,

Mong người bố thí từ bi cúng dường.

Người thế tục còn buông cao ngạo,

Huống chi là vào đạo xuất gia;

Mong cầu giải thoát nhớ là,

Hạ mình đây đó người ta cúng dường.

Này tăng ni ! Cái lòng xiểm xúc,

Trái đạo thì hãy vứt nó đi;

Dối gian súc xiểm còn thì,

Bao giờ thấy đạo diệu vi sáng đường.

Phải giữ gìn lòng luôn đoan chính,

Lấy thật thà gốc định thẳng ngay;


8. Tăng ni ! Nên biết thế này:

Mong cầu, ham muốn cho hay đừng nhiều.

Càng muốn nhiều càng điều khổ não,

Không mong cầu cứ đạo mà đi,

Mọi điều ham muốn ít thì,

Có gì đến nỗi sầu bi não phiền.

Được mỗi vậy còn nên tu tập,

Huống chi là công đức bao nhiêu;

Người mà ham muốn chẳng nhiều,

Đâu cần xu nịnh theo chiều vì ai,

Sáu căn cũng khó sai khó khiến,

Người tu hành ít muốn tâm an;

Chẳng còn sợ sệt hoang mang,

Phải hồi đến việc kiên gan đương đầu.

Không mong cầu lại hầu ít muốn,

Nết này đi sớm chứng Niêt-bàn.


9. Tăng ni muốn thoát buộc ràng,

Khỏi điều khổ não thế gian thường tình.

Hãy quán pháp tự mình biết đủ,

Biết đủ thì yên ổn vui tươi,

Đất bằng biết đủ cũng rồi,

Người không biết đủ dù nơi thiên đường.

Không biết đủ vô phương toại nguyện,

Giàu có nhưng vẫn tựa nghèo nàn,

Những người biết đủ rộng đàng,

Tuy nghèo nhưng vẫn hân hoan như giàu.

Người biết đủ dễ nào cam chịu,

Để thân vào nô lệ năm căn,

Người không biết đủ mê lầm,

Năm trò dục lạc thế trần khiến sai.

Khiến bia miệng mỉa mai chê trách,

Thật đúng là đáng xót đáng thương,

Pháp môn biết đủ rộng đường,

Cho người sớm được tỏ tường Chân Như.


Này tăng ni ! Người tu cầu đạt,

Tịch tịnh lòng an lạc vô vi,

Thế nên cần phải xa lìa,

Những nơi tụ họp hội hè huyên thuyên.

Một mình chỗ lặng yên tĩnh mịch,

Chỗ cõi trời Đề Thích, chư thiên,

Thảy đều kính trọng trang nghiêm,

Hãy nên xa chốn huyên thuyên hồng trần,

Hãy xa lánh lăng xăng hội chúng,

Để yên lòng cắt rụng khổ đau,

Tư duy trí tuệ nhiệm mầu,

Ham nhiều hội chúng khó cầu tâm yên.

Như cành cây nhiều chim quần tụ,

Hẳn có khi chuốc vạ: gãy cành,

Thế gian trói buộc giam mình,

Giữa dòng bể khổ đắm chìm đưa ra.

Như voi sa bãi sình bùn ngập

Đến bao giờ mới được thoát lên.

Đó là đức tình có tên,

‘Xa lìa’ ràng buộc nghiệp duyên hồng trần.


Này tăng ni ! Tinh cần chăm chỉ,

Chẳng việc gì không thể không xong,

Chuyên cần tinh tấn hết lòng,

Như là nước giỏ đá mòn khác chi.

Với tâm biếng nhác hành trì,

Như người cọ gỗ mong khi lửa bừng.

Gỗ chưa nóng, nửa chừng đã nghỉ,

Mong lửa mà có lửa được không?

Đó là đức tình gắng công.

Cũng là ‘Tinh Tấn’ dốc lòng không lơi.

Này tăng ni ! Cầu người tri thức,

Hay cầu ai trợ lực tận tình,

Sao bằng gìn giữ tâm mình,

Để cho vọng niệm không sinh não phiền.

Vậy tâm phải giữ gìn hết sức,

Chánh niệm rời công đức mất luôn,

Đã thành sức niệm kiên cường,

Dẫu vào giặc dục chẳng còn hề chi.

Như áo giáp mặc khi ra trận,

Được yên lòng khỏi sợ hiểm nguy,

Được không vọng niệm rồi thì,

Đó là đức tính có chi tốt bằng.

Này tăng ni ! Giữ tâm an định,

Tâm định rồi rõ sự diệt sanh,

Phải luôn tinh tấn lòng mình,

Kiên trì tu tập hành thiền không lơi.

Nếu tâm định xa rời náo loạn,

Như nước lên khéo chặn giữ bờ,

Tu hành cần trí có dư,

Định thiền tâm niệm chớ cho rịn rò.

Định là đức tình cơ hồ,

Giúp người rốt ráo sang bờ bên kia.


Này tăng ni ! Nếu người trí tuệ,

Hẳn đâu còn câu nệ chấp tham,

Tự mình xét việc đã làm,

Lòng thường tỉnh thức buộc ràng gỡ ra.

Dốc năng lực để mà giải thoát,

Nương theo điều giáo pháp Như Lai,

Nếu không trì tuệ đủ đầy,

Không sao gọi được như vầy xuất gia.

Chẳng thế gọi họ là thế tục,

Chẳng tên chi gọi được thứ này,

Chiếc thuyền trí tuệ xưa nay,

Giúp người vững chí ra ngoài tử sanh.

Là đèn rọi vô minh tan biến,

Là thuốc thần trị bệnh đảo điên,

Là gươm cắt đứt não phiền,

Trao dồi giác tuệ thường xuyên rất cần,

Nghe, hiểu, tu tăng cường lợi lạc,

Trí tuệ ngời mắt thịt cũng tinh,

Phải là trí tuệ quang minh,

Đó là đức tính tự mình sáng soi.

Này tăng ni ! Với người hí luận,

Chỉ khiến mình tâm loạn mà thôi,

Xuất gia chỉ vậy đâu rồi,

Không thành giải thoát ôi thôi buồn gì !

Tâm mê loạn chỉ vì hý luận,

Để vui vào tịch diệt chớ quên,

Loại trừ hý luận mới nên,

Đó là đức tính giữ mình hôm mai.

Này tăng ni ! Phải hoài tỉnh thức,

Tâm niệm về công đức gần xa,

Bỏ điều phóng túng hết ra,

Như là tránh giặc cướp nhà khác chi.

Lòng đại bi Phật vì khắp cả,

Mới lên lời hỉ xả này ra,

Những điều chánh pháp lợi ta,

Cùng là cứu cánh hầu qua Niết-bàn.

Phải nổ lực thực hành tinh tấn,

Dù sông hồ, rừng núi, gốc cây,

Dù trong tịnh thất hay ngoài,

Phải luôn nghĩ nhớ pháp này Phật ban.

Chớ chểnh mảng, lỡ làng qua mất,

Phương tiện nên tu tập cho rành,

Chuyên cần tinh tấn thực hành,

Để mình khỏi phí được sanh làm người.

Chớ để cả cuộc đời vô ích,

Khỏi sau này hối tiếc ăn năn,

Phật là thày thuốc tận tâm,

Biết rành bệnh lý, thuốc cần phải cho,

Mỗi bệnh trạng dặn dò mỗi loại,

Uống hay không đâu tại lỗi thày,

Phật như người chỉ đường ngay,

Chỉ phương giải thoát khỏi sai khỏi lầm.

Đường đã rõ chẳng năng cất bước,

Hỏi bao giờ mới được đến nơi,

Lỗi không bởi tại thày rồi,

Lỗi do biết lối nhưng lười chẳng đi.

17. Này tăng ni ! Bốn điều chân lý,

Các ông chưa hiểu ý chỗ nào,

Hãy nên hỏi lại rõ vào,

Thế Tôn chỉ dạy trước sau cho rành.

Thế Tôn nhắc ba lần như vậy,

Bốn chúng đều im lặng lắng nghe,

Chẳng ai thắc mắc gọi là,

Bấy giờ A-nậu - lâu-đà bước ra.

Bạch Thế Tôn: ‘Dù là trăng nóng,

Hay mặt trời lạnh cóng nay mai,

Bốn điều chân lý Như Lai,

Muôn đời vẫn vậy chẳng thay đổi gì.

Như ‘khổ đế’ cực kỳ thực tế,

Cõi trần đời dâu bể khổ đau,

Sanh già bệnh chết bao lâu,

Đã là quy luật khổ sầu nhân gian,

Thương yêu kết xa càng đau khổ,

Ghét nhau thì hội ngộ vui đâu,

Muốn ham chẳng toại hổ sầu,

Căn nguyên Tập đế: thương đau đời đời.

Do ái dục sinh sôi, chấp mắc,

‘Diệt đế’ là khổ cắt cho rơi,

Nguyên nhân đau khổ rã rồi,

Sáng đường ‘đạo đế’ an vui Niết-bàn.

15. Phật đã dạy rõ ràng rất mực,

Chẳng ai còn nghi hoặc điều chi,

Nhiều người chưa chứng được thì,

Nghe Phật nhập diệt sầu bi lệ tràn,

Người mới tu nghe ban lời ấy,

Càng ráng tu để thấy Niết-bàn,

Như đêm tăm tối kinh hoàng,

Bỗng lòe chớp sáng rõ ràng đường đi.

Người chứng quả đã lìa biển khổ:

Thầm nghĩ rằng Phật vội chi xa,

Lời Ngài A-nậu-lâu-đà:

Bốn điều chân lý Phật đà sáng soi.

Mọi người thấu hiểu cả rồi,

Đại bi Đức Phật ban lời, nói thêm:

Này tỳ kheo! Chớ nên bi thiết,

Đã sinh ra làm kiếp con người,

Hợp tan qui luật muôn đời,

Bao giờ hội hợp chẳng hồi ly tan?

Sự như vậy muôn ngàn không có,

Pháp lợi mình đâu đó đã thông,

Lợi người ta dạy đã xong,

Cho dù nán lại cũng không ích gì.

Cõi trời người ai kia đáng độ,

Thì bấy nay được độ cả rồi,

Ai chưa được độ đương thời,

Nhân duyên đã sẵn hẳn rồi cũng qua.

Nay đệ tử thay ta nối nghiệp,

Chỉ pháp thân bất diệt thường còn,

Thế gian muôn sự vô thường.

Hơp tan phải lẽ đừng thương đừng sầu.

Hãy tinh tấn sớm cầu giải thoát,

Trí tuệ làm gươm cắt mờ mê,

Thế gian đích thật hiểm nguy,

Rõ ràng muôn sự chẳng chi vững bền.

Nay nhập diệt bỏ đi bệnh dữ.

Bỏ cái thân ‘năm uẩn’ hợp này,

Tội tình nghiệp báo dãy đầy,

Người ta tạm gọi cái nầy là thân.

Giữa trầm luân sinh già bệnh chết,

Người trí mà đã dứt nó xong,

Ai không hoan hỉ tấc lòng,

Như trừ được giặc ai không vui mừng.

Này tăng ni ! Hãy dùng tha thiết,

Ráng tìm đường giải quyết sầu đau,

Thế gian to nhỏ trước sau,

Muôn loài vạn sự biết bao vô thường,

Các ông chớ cảm thương bi thiết,

Đã đến giờ nhập diệt Như Lai,

Đừng lời chi nữa dông dài,

Đến hồi thể nhập Niết-bàn Vô Dư,

Đó là những lời từ Phật dạy

Cũng là lời để lại sau cùng,

Phật-đà trí tuệ đại hùng,

Muôn đời soi sáng trùng trùng nhân gian.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11647)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11971)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11360)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12077)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12573)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10776)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9961)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10184)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12362)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15357)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15382)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12425)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11196)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12097)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10628)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12567)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13181)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14851)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12700)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16588)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12275)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11867)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13547)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11964)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11647)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12777)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12627)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15671)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13636)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12914)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18027)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11181)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9088)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13064)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10323)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12206)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14282)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24622)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10702)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant