Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời nói đầu

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9716)
Lời nói đầu

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank

LỜI NÓI ĐẦU

MỘT GIẢI PHÁP CHO MỌI VẤN ĐỀ CỦA ĐỜI SỐNG
THIỀN ĐỊNH TỊNH HÓA 
KIM CƯƠNG TÁT ĐỎA (VAJRASATTVA)

Tôi muốn giải thích sự quan trọng lớn lao của việc thiền định Vajrasattva và thực hành trì tụng. Tại sao, vì nó quan trọng ngay cả cho những người tin tưởng vào chính cuộc đời này là thực !

Mọi thành công trong cuộc đời, gồm những thứ bình thường như gia đình, bạn bè, công việc, sức khỏe, tài sảnquyền lực đều tùy thuộc vào việc tịnh hóa những chướng ngại của nghiệp bất thiện và không tạo nghiệp bất thiện nữa. Chúng ta tạo nghiệp bất thiện như thế nào ? Chẳng hạn khi chúng ta dấn thân vào muời việc bất thiện do tính ích kỷmê lầm. Tâm thức mê lầmsi mê, tham luyếnsân hận ; mười việc bất thiện là : Thân có ba : sát, đạo, dâm – Ngữ có bốn : nói dối, nói xấu, nói tổn thương người khác, nói tầm phào – Ý có ba : thèm khát, ý xấu và tà kiến. Theo luật tự nhiên của nghiệp, nếu bạn làm tổn thương người khác tức là bạn tự làm tổn thương mình.

Và nó cũng vận hành như vậy trên con đường ngược lại. Nếu bạn muốn người khác thương yêu mình, trước tiên bạn phải thương yêu người khác. Nếu giúp đỡ và làm lợi ích cho người khác, tự nhiên họ sẽ giúp đỡ hay tạo lợi ích cho bạn. Định luật nhân quả giản dị như thế. Việc thực hành tịnh hóa Vajrasattva có năng lực mạnh hơn các nghiệp bất thiện, nó có thể che chở cho bạn khỏi trải nghiệm những khó khăn do nghiệp bất thiện mang lại. Do vậy, thực hành tịnh hóa là giải pháp quan trọng nhất cho những khó khăn, và cực kỳ cần thiết, ngay cả cho những người chỉ tin có một kiếp sống này.

Tiếc thay, tâm của những người như vậy thường không rộng mở để học hỏi những điều mới về thực tại của đời sống hay bản tánh của những hiện tượng – những triết lý mới, chủ đề mới. Họ thậm chí cũng chẳng phân tích những khả tính mới. Tất cả cả điều này chỉ ngăn cản họ không kinh nghiệm được hạnh phúc tạm thời hay hạnh phúc tối hậu. Nếu bạn không muốn những khó khăn trong quan hệ, thất bại trong làm ăn, bị bệnh tật như ung thư hay AIDS, bị tai tiếng hay chỉ trích của người khác thì việc thực hành Vajrasattva đặc biệt quan trọng.

Khi nói về sự trưởng thành của tâm linh, việc thực hành tịnh hóa Vajrasattva trở nên quan trọng hơn nhiều. Chẳng hạn, Đức Văn Thù (Manjushri) khuyên Lama Tsong Khapa : “Cách hiện thực hóa con đường giác ngộ nhanh chóng là làm ba việc : tu hành tịnh hóa và tích lũy công đức, chú tâm cầu nguyện đến Đạo sư, và tu hành tâm thức trên con đường giác ngộ.”

Vì những lý do đó, việc thực hành Vajrasattva rất phổ biến ở tất cả bốn truyền thống của Đạo Phật Tây Tạng : Nyingma, Kagyu, Sakya, Geluk, dùng để tịnh hóa những chướng ngại, che ám, nghiệp bất thiện và bệnh tật, Tantra gốc Dorje Gyašn (Trang hoàng Kim Cương) nói rằng nếu bạn luôn luôn không ý thứccẩn trọng, ngay cả những nhân xấu nhỏ bé cũng gây ra thương tổn to lớn cho thân, ngữ, tâm của bạn giống như nọc rắn lan tràn nhanh chóng khắp thân ngày càng trở nên tệ hại, gây nguy hiểm cho đời sống bạn.

Bậc Đại Giác Pabongka Dechen Nyingpo nói rằng nếu bạn giết một con trùng nhỏ bé mà không tu hành tịnh hóa Vajrasattva trong ngày đó, sức nặng của nghiệp sẽ tăng gấp đôi ở ngày kế tiếp, ngày thứ ba lại tăng gấp đôi và tới ngày thứ 15 sẽ nặng như giết một người. Ở ngày 18 sẽ phát triển 131.072 lần. Vậy bạn thấy đó, hàng tuần, tháng, năm trôi qua, một nghiệp bất thiện nhỏ bé sẽ nhân lên nhiều lần chẳng sớm thì muộn sẽ trở thành một ngọn núi với kích thước của trái đất này. Và đến lúc chết, nó trở nên quá đỗi nặng nề.

Dĩ nhiên, ở đây tôi chỉ nói về nghiệp tiêu cực nhỏ bé, nhưng hàng ngày chúng ta tích tập nhiều, rất nhiều nghiệp tiêu cực của thân, ngữ, ý. Sức nặng của mỗi một nghiệp tiêu tực nhỏ bé tạo ra mỗi ngày lại nhân lên nhiều lần, tạo ra sức nặng không thể tưởng được. Và chắc chắn rằng hàng ngày bên cạnh những nghiệp bất thiện nhỏ bé, chúng ta còn tạo nhiều nghiệp bất thiện to lớn. Cho nên từ vô thủy cũng như ngay trong kiếp sống này chúng ta đã tạo nhiều nghiệp nặng. Nếu bạn quán tưởng về sự nhân lên tiếp tục của tất cả những nghiệp đó thì thật không thể nào tưởng tượng nổi.

Tantra Dorje Gyašn cũng nói nếu bạn tụng niệm chân ngôn Một trăm âm Vajrasattva hai mươi mốt lần trong một ngày, sẽ ngăn ngừa những nghiệp bất thiện phát triển. Những bậc chứng ngộ cao cả, vĩ đại cũng giải thích đây là cách để tịnh hóa bất cứ những sa đọa và phạm giới nào mà bạn đã tích lũy. Hơn thế nữa, Đức Trijang Rinpoche mà tự thân Ngài thực sự là Đức Heruka đã giải thích rằng việc trì tụng chân ngôn ngắn Vajrasattva (OM VAJRASATTVA HUM) hai mươi mốt lần một ngày là một sức mạnh tịnh hóa không thể nghĩ bàn. Chân ngôn này không những có sức mạnh ngăn cản bất cứ nghiệp bất thiện nào đã tạo trong ngày phát triển mà còn tịnh hóa hoàn toàn tất cả những tiêu cực của bạn đã tạo trong ngày hôm nay, trong đời này, và ngay cả trong những kiếp đầu thai từ vô thủy của bạn.

Đây là một số những lợi lạc chẳng thể nghĩ bàn của việc thực hành trì tụng và thiền định Vajrasattva. Hơn nữa, Ngài cũng dạy rằng nếu trì tụng chân ngôn Vajrasattva một trăm âm một trăm ngàn biến bạn có thể tịnh hóa được ngay cả việc phạm đại giới của Tantra Yoga tối thượng (Highest Yoga Tantra). Do đó bạn chắc chắn có thể tịnh hóa được việc phá hư gốc Pratimoksha (sự giải thoát của cá nhân hay biệt giải thoát) và những lời nguyện của hạnh Bồ tát qua kỹ thuật này. 

Những vị thiền giả có kinh nghiệm đã khuyên rằng nói chung rất quan trọng khi cố gắng thực hành tịnh hóa trong cuộc sống hàng ngày, đây là con đường đạt đến những chứng ngộ tâm linh. Ngài Geshe Dolbowa của phái Kadam nói rằng nếu bạn tu hành sự tịnh hóa và sự tích lũy công đức liên tụcchuyển tâm bạn vào đường đạo, những chứng ngộ lam-rim bạn nghĩ trong một trăm năm mới đạt được, sẽ đến với bạn chỉ trong bảy năm. Đó là những hướng dẫn đầy khích lệ của những thiền giả kinh nghiệm cao, đã đạt được những cấp độ khác nhau trên con đường giác ngộ.

Lama Atisha thường nói có vô số không thể nghĩ bàn những cửa sa đọa cho những hành giả đã nhận được sự truyền pháp Tantra Yoga tối thượng. Chẳng hạn chỉ nhìn vào một vật bình thường như một cái lọ và thấy nó như bình thường, là một sa đọa. Cũng như một mạn đà la tinh sạch bị bụi đóng nhanh chóng trên bàn thờ, cũng vậy dòng tâm thức của bạn tiếp tục tích chứa hàng đống tiêu cực trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, khi nghe điều này chớ vội kết luận, những sự nhận lãnh quán đảnh mật chú dễ đưa đến việc sa đọa đẻ không còn có khả năng đạt đến giác ngộ. Lama Atisha nói chỉ có những người vì không biết rằng mật chú chứa đựng những phương tiện thiện xảo không thể nghĩ bàn về sự tịnh hóa những sa đọa nên mới nghĩ như vậy.

Ngài nói : “Chỉ một cục đá có thể ném một trăm con chim, đó là phương tiện thiện xảo được gọi là sự thực hành Vajrasattva.” Điều mà Lama Atisha nói là về một mặt, chỉ trong một phút, thật dễ dàng tích tập một số sa đọa và bất thiện như mưa đổ xuống – chẳng hạn nhìn thấy một đối tượng là bình thường – nhưng mặt khác có phương tiện thiện xảo của tantra như sự thực hành Vajrasattva. Một sự thực hành này sẽ tịnh hóa vô số những tiêu cực do phá vỡ những lời hứa nguyện gốc hay chi nhánh, và trong cách này bạn có thể phát triển tâm thức của mình trên con đường giác ngộ.

Do vậy, việc tu hành Vajrasattva đặc biệt quan trọng – cho cả những ai dù chấp nhận hay không vào sự hiện hữu của sự tái sanh và nghiệp.

Sự bình giảng về Vajrasattva trong quyển sách này là một hướng dẫn đầy kinh nghiệm của Đạo Sư tôi, Lama Yeshe, đã trao cho tôi, người mà ngay cả với cách nhìn thông thường cũng là một đại Yogini, và người đã chăm sóc tôi như một người cha với đứa con duy nhất của mình. Ngài không chỉ trao cho tôi những phương tiện của cuộc sống như thực phẩm, quần áo, mà còn hướng dẫn tôi trong Pháp hơn ba mươi năm ròng.

Bất cứ ai học hỏi quyển sách này và có được cảm hứng để tu hành và ẩn tu về sự thực hành Vajrasattva đều được sự hướng dẫn của lòng bi của Lama. Ngài giải thoát cho bạn nhiều kiếp nghiệp bất thiện, nhiều kiếp đau khổ không thể tưởng được ở những cõi thấp, và cũng như cõi người, trời, và dẫn bạn đến giải thoáttoàn giác.

Cầu chúc cho những ai thấy, tiếp xúc, nhớ lại hay thậm chí nghĩ hoặc nói về quyển sách này được không bao giờ sanh vào những cõi thấp, chỉ nhận được sự đầu thai thành một con người hoàn hảo, gặp được những thiện tri thức Đại thừa đức hạnh và đầy đủ phẩm tính, thực hành tịnh hóa Vajrasattva mỗi ngày và mau chóng thành tựu trạng thái giác ngộ của Đạo Sư Vajrasattva. Đây là điều mong ước của tôi.

Cám ơn các bạn rất nhiều.

 Thubten Zopa

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29889)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27171)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21764)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20426)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24738)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18983)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24736)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30970)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23980)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27760)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26505)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21300)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23212)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38119)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18430)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19950)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19038)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23143)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23867)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22786)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22905)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29561)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20634)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15845)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18848)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19646)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20148)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19949)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18111)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22918)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34161)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16410)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39234)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26055)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20095)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18844)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24050)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29109)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22899)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30942)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20998)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26849)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20670)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26250)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23318)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19816)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24668)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30023)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20214)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20400)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15143)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15826)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23867)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant