Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chú Thích

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11262)
Chú Thích

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN PHỤ LỤC
 

CHÚ THÍCH

1. Xem Giải thoát trong lòng Bàn Tay Bạn. (bốn năng lực chống lại) và (nghiệp).

2. Xem Lạc của Lửa Bên Trong của Lama Yeshe, gồm những chỉ dạy của ngài về tum-mo từ Sáu yoga của Naropa.

3. Năm 1981-82 Lama Yeshe sửa soạn mẻ đầu tiên các viên thuốc chu-len theo những thể thức truyền thống, dùng những nguyên liệu tự nhiên cực kỳ giá trịdiễn tả chi tiết trong một cuốn sách nhỏ xuất bản bởi nhà xuất bản Wisdom vào lúc đó. Những viên thuốc được ban phước gia bị bằng trì tụng một triệu thần chú Heruka Vajrasattva. Mùa hè 1982, năm mươi học trò Pháp từ khắp thế giới đã dùng những viên thuốc này dưới sự lãnh đạo của đại thiền giả quá cố Geshe Jampa Wangdu và làm những cuộc nhập thất thành côngTrung Tâm Ẩn Cư Tushita, Dharamsala, Ấn Độ, chứng minh sự thực hành này không chỉ dành riêng cho những người Tây Tạng nữa. Những cuộc nhập thất ngắn ngày này vẫn còn được hướng dẫn ở một số trung tâm FPMT, dùng những viên thuốc được làm ở Viện Y Học và Chiêm Tinh Học Tây Tạng ở Dharamsala

4. Xem Giới Thiệu vào Tantra.

5. Xem phụ lục 2, bản dịch và giải nghĩa thần chú này. Xin xem thêm phụ lục 3, về phương pháp sử dụng thần chú này.

6. Xem Phương Pháp Trực Tiếp và Không Sai Lầm của Lama Zopa về những giáo huấn đầy đủ về nhận lãnh những điều luật.

7. Một số người cũng đặt một torma thứ tư trong chén cúng tượng trưng sự dâng cúng thức ăn. Nếu không, chén này có thể chứa một số thức ăn khác hay nước. Dầu nó chứa gì cũng được dâng cúng mỗi ngày. Lama Zopa Rinpoche nhấn mạnh rằng những thức ăn khác có thể thay thế cho những bánh torma truyền thống, như Lama Yeshe đã nói. Có nhiều biến thái trong những phẩm vật nghi lễ này, và các bạn nên hỏi lama của bạn để biết cần làm gì.

8. Một cách gọn để ban phước, gia bị torma là như sau : Trước hết tụng HA HO HRI ba lần với hai bàn tay bắt đúng ấn, bàn tay trái trên tay phải, mở ra, đối diện nhau, ngón tay chỉ thẳng. Với sự trì tụng này, tất cả lỗi lầm về màu sắc, hương, vị và tiềm năng đều được tịnh hóa, và torma trở thành cam lồ phúc lạc. Rồi trì tụng OM AH HUM ba lần. Cam lồ tăng trưởng lớn rộng và được ban phước. Hãy quán tưởngtrở thành vô tận. Sau đó, làm sự cúng dường bên ngoài : OM VAJRASATTVA ARGHAM… SHABTA PRATICCHA HUM SVAHA. Cuối cùng, tụng đọc tán thán Nyi-me-ye-she… từ bài sadhana, thay thế …ch’ak-s’ašl-toš (tôn kínhtán thán) bằng …la-ch’al-ts’ašl trong dòng cuối. Với một nghi lễ ban phước dài hơn, bạn có thể thực hiện sự cúng dường bên trong, chẳng hạn từ sadhana Vajrayogini, hay sự ban phước của Heruka Vajrasattva tsok như đã giải thích trong phần 4 của cuốn sách này.

9. Geshe Tsulga, đại học Phật học viện Sera-je (và là thầy dạy thường trựctrung tâm EPMT bờ biển phía đông Hoa Kỳ) giải thích rằng bạn có thể dâng cúng torma này mỗi ngày, quán tưởng rằng bạn dâng cúng một phần “tươi mới” của nó mỗi lần ; hay bạn có thể đặt một bánh bít-quy hay thực phẩm khác với torma và cúng như là torma chính yếu mỗi ngày. Thời gian tốt nhất để cúng torma là trong thời chót của mỗi ngày. Sau khi trì tụng thần chú, trước lúc dâng cúng và tán thán, hãy ban phước gia bị torma như trên ; rồi quán tưởng rằng những chữ HUM trên lưỡi của Heruka Vajrasattva và Yum Nyem-ma Kar-mo chuyển hóa thành những ống rỗng ánh sáng cầu vồng bề rộng bằng một hạt lúa mạch. Với sự trì tụng thần chú OM VAJRASATTVA SAPARIVARA IDAM BALINTA KAKA KAHI KAHI, những chữ ấy tỏa sáng đến torma và rút ra tinh túy của nó là đại lạc. Rồi trở lại với sadhana.

10. Hộ pháp đặc biệt là Mahakala Bốn Tay. Lý tưởng là bạn dâng cúng torma này ba lần : một lần vào lúc bắt đầu nhập thất, cái tiếp vào khoảng giữa, và cuối cùng, khi cuộc nhập thất của bạn đã kết thúc lễ kang-soš (thành tựuphục hồi) Mahakala có thể được thực hiện khi bạn làm sự cúng dường này.

11. Lama Zopa Rinpoche nói rằng sự dâng cúng torma thứ ba này có thể làm chỉ một lần, vào lúc bắt đầu nhập thất. Tuy nhiên, nó cũng có thể được làm mỗi ngày, hay ba lần trong kỳ nhập thất, cùng với kang-soš Mahakala, như ở trên.

12. Xem Giải Thoát trong Lòng Bàn Tay Bạn về những lợi lạc của việc cúng nước.

13. Việc tương tự áp dụng cho lễ tsok puja Heruka Vajrasattva. Geshe Tsulga nói rằng trong nhập thất, tốt nếu làm lễ tsok Heruka Vajrasattva mỗi ngày, chừng nào nó không cản ngại bạn đạt đến mục tiêu là một trăm ngàn thần chú. Bạn cần nhất định làm lễ tsok đó vào ngày mười và hai mươi lăm mỗi tháng Tây Tạng, là những ngày lễ tsok thường lệ.

14. Geshe Tsulga giải thích rằng để có một tích tập hoàn hảo và để nhận những ban phước gia bị của Heruka Vajrasattva một cách nhanh chóng, mạnh mẽ và liên tục, bạn nên trì tụng ye-she paš-nga. Sau khi bạn đã trì tụng xong một trăm ngàn thần chú Vajrasattva, hãy trì tụng mười ngàn lần khác (nghĩa là một phần mười của tổng số), thay thế những chữ HA ANDZE SVAHA cho chữ PHAT ở cuối thần chú thường lệ. Như thế, bây giờ nó chấm dứt là …SAMAYA SATTVA AH HUM HA ANDZE SVAHA. Lễ puja Dorje Khadro bằng lửa có thể làm sau đó.

15. Geshe Tsulga nói rằng bạn cần đến một trăm ngàn biến thần chú và làm một puja lửa để đủ điều kiện cho một số hoạt động, như những hoạt động được đề cập đến trong một cẩm nang do lama Ngul-chu Dharmabhadra kết tập. Tự quán đảnh là một ví dụ của các hoạt động đó. Dĩ nhiên, bạn có thể làm một puja lửa với bất kỳ bao nhiêu biến thần chú, nhưng nếu nó ít hơn một trăm ngàn biến, bạn sẽ không đủ điều kiện để làm những hoạt động đặc biệt ấy. Mỗi hóa thần của những hoạt động riêng (laš-tsok) của vị ấy.

16. Tây Tạng : tsa-me-nga ; nghĩa đen “năm cái không có sự chọn lựa.” Nghĩa là bạn không có sự chọn lựa mà chỉ tái sanh vào địa ngục khi cuộc đời trong đó bạn đã tạo ra hành động ấy chấm dứt.

17. Xem trang 268 trong đó Lama giải thích tại sao ngài đôi khi không làm điều này.

18. Đối tượng chánh cho sự quy y cũng có thể là Vajradhara, như lama giải thích trong phần bình giảng chính.

19. Xem chú thích 16 ở trên. Trong khi theo những hạn định chung, năm tội ngũ nghịch là không thể sám hối, thì những phương pháp đầy năng lực của tantra cho phép bạn tịnh hóa được chúng.

20. Xem thêm “Tọa cụ ngồi thiền,” trang 146 và trang 265 chỗ Lama giải thích làm cách nào để tạo ra một chỗ ngồi thiền có thể mang đi được.

21. Lama Yeshe đã tổ chức Kỷ Niệm Kinh Nghiệm Giác Ngộ (EEC) đầu tiên, một tụ hội quốc tế những đệ tử Tây phương của ngài ở Bodhgaya, Ấn Độ, vào năm 1982. Khóa sáu tháng gồm những giảng dạy, quán đảnhnhập thất này có hơn hai trăm người học, với gần một trăm tăng và ni. Từ khi Lama tịch, Lama Zopa Rinpoche đã tổ chức thêm hai khóa EEC, lần thứ tư vào năm 1995-96.

22. Buồn thay, đây quả thật là buổi nói chuyện cuối cùng của Lama ở Viện Vajrapani. Dù nói thế, vài tháng sau, ở Nepal, sức khỏe ngài xuống nhanh chóng, và ngài ra đi ở Los Angeles ngày 1 tháng 3 năm 1984. Vài ngày sau, Lama được làm lễ trà tỳ ở Vajrapani, nơi một cái tháp đẹp đẽ được dựng lên để tưởng nhớ ngài.

23. Bản dịch sadhana ở đây phối hợp bản dịch nguyên thủy của Lama – nằm rải rác trong bài bình giảng – với bản dịch của Martin Willson trong Heruka Vajrasattva : Sadhana và Lễ Tiệc (NXB Wisdom, 1984), một bản dịch sát nghĩa bản văn Tây Tạng của Lama.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29915)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27205)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21802)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22267)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23646)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20469)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20079)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21967)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24784)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19023)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24796)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24018)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27796)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26561)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21383)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23251)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38185)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18818)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18454)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20012)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19073)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23211)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23919)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22848)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22959)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29622)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20658)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18744)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15870)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19710)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20192)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19979)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18149)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34213)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16446)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16949)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39302)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26124)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20136)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18881)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24103)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29180)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22928)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 31001)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21045)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26889)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20711)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26291)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23362)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19843)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24706)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30056)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20248)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20437)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15167)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15854)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23935)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant