Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Phương pháp Yoga về Heruka Vajrasattva vinh quang tối thượng

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11638)
1. Phương pháp Yoga về Heruka Vajrasattva vinh quang tối thượng

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank
PHẦN PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1

PHƯƠNG PHÁP YOGA 

VỀ HERUKA VAJRASATTVA VINH QUANG TỐI THƯỢNG (23)

Quy y
(Đọc tụng ba lần :)

Vĩnh viễn, con quy y vào Phật, Pháp, Tăng và vào Tăng đoàn của ba thừa, những daka và dakini của yoga mật chú, những anh hùng nam và nữ, chư thiên nam nữ, chư bồ tátđặc biệt vào guru của con.

Phát Bồ đề tâm
(Đọc tụng ba lần :)

Tôi phải trở thành Heruka để dẫn dắt tất cả chúng sanh đến trạng thái Heruka-tánh cao cả.
(Thiền định cái bình : Tập thở chín vòng)

Quán tưởng Heruka Vajrasattva

Từ cái không, khoảng một tấc rưỡi trên đỉnh đầu tôi, xuất hiện chủng tự PAM, nó chuyển hóa thành một hoa sen ngàn cánh. Trên đỉnh hoa sen xuất hiện chủng tự AH, nó chuyển hóa thành một dĩa mặt trăng. Trong trung tâm dĩa mặt trăngchủng tự HUM. Đột nhiên, chữ HUM chuyển hóa thành một chày kim cương năm chỉa với một chữ HUM ở trung tâm. Những ánh sáng rực rỡ phóng ra từ chữ HUM và chày kim cương, đến khắp mười phươnghoàn thành hai mục đích. Toàn vũ trụ tan thành ánh sáng. Rồi ánh sáng này trở lại và thu vào trong chữ HUM trong chày kim cương. Chữ HUM và chày kim cương cũng tan vào ánh sáng và chuyển hóa thành Heruka Vajrasattva.

Vajrasattva màu trắng. Ngài có một mặt và hai cánh tay. Ngài cầm một chày kim cương trong tay phải và một cái chuông trong tay trái. Ngài ngồi trong tư thế hoa sen toàn phần với hai tay trong ấn ôm choàng. Phối ngẫu của ngài, Dorje Nyem-ma, ôm ngài, hai chân bà bao vòng thân ngài. Bà màu trắng, có một mặt và hai cánh tay. Bà cầm một con dao cong trong tay phải và một chén sọ người trong tay trái.

Cả hai vị mặc áo lụa của trời và trang sức với châu báu. (Cả hai có những chủng tự) OM ở luân xa đỉnh đầu, AH ở luân xa cổ họng và HUM ở trái tim. Ánh sáng chói rực từ chữ HUM ở tim phóng ra, cầu thỉnh năng lực trí huệ thiêng liêng tối thượng của tất cả Như Lai.

Dâng cúng Heruka Vajrasattva

OM KHANDA ROHI HUM HUM PHAT (Rửa sạch đồ cúng)
OM SVABHAVA SHUDDAH SARVA DHARMA SVABHAVA SHUDDHO HAM (Tịnh hóa chúng)

Tất cả trống không. Một chủng tự AH xuất hiện từ cái không. Nó biến thành một kapala lớn màu trắng chứa năm thứ thịt và năm cam lồ. Chúng tan thành một đại dương năng lực cam lồ của trí huệ thiêng liêng siêu việt.
(Chú nguyện những đồ cúng bằng cách đọc ba lần :)

OM AH HUM HA HO HRI
(Dâng cúng chúng với :)

OM VAJRASATTVA ARGHAM PRATICCHA HUM SVAHA
(OM Vajrasattva, xin hãy nhận nước chúc mừng HUM SVAHA)

tương tự với PADYAM (nước rửa chân), PUSHPE (hoa), DHUPE (hương, nhang), ALOKE (ánh sáng), GANDHE (hương) NAIVEDYA (thức ăn), và SHABDA (âm thanh, nhạc) thay vào chỗ ARGHAM.

JAH HUM BAM HOH
Trở thành bất nhị.
Quán đảnh bởi chư Phật của năm bộ

Lần nữa ánh sáng rực rỡ phóng từ chữ HUM ở trái tim thiêng liêng, cầu thỉnh tất cả hóa thần quán đảnh của năm bộ.
(Làm những dâng cúng cho các ngài với :)
OM PANCHA KULA SAPARIVARA ARGHAM… SHABDA PRATICCHA HUM SVAHA

“Tất cả chư Như Lai, xin ban quán đảnh (Heruka Vajra-sattva) cho con.” Theo lời thỉnh cầu này. Tất cả chư Như Lai cầm lên bình quán đảnh của các ngài, đầy ắp năng lực cam lồ của trí huệ thiêng liêng siêu việt, và cam lồ bắt đầu chảy xuống. Khi thần chú OM SARVA TATHAGATA ABHISHEKATA SAMAYA SHRIYE HUM được đọc, sự quán đảnh được ban cho.

Thân thể thiêng liêng của trí huệ hoàn thiện tuyệt đối, Heruka Vajrasattva, hoàn toàn đầy ắp năng lực cam lồ của trí huệ đại lạc siêu việt. Một số cam lồ tràn ra và biến thành Akshobhya, vị này trang hoàng cho đỉnh đầu ngài.

Chủng tự HUM ở trung tâm dĩa mặt trăng ở trái tim thiêng liêng, bao vòng quanh bởi thần chú một trăm âm (ngược chiều kim đồng hồ quanh viền dĩa mặt trăng).
Những dâng cúng cho Heruka Vajrasattva
OM VAJRASATTVA ARGHAM… SHABDA PRATICCHA HUM SVAHA
OM VAJRASATTVA OM AH HUM
Tán than

Con đảnh lễ trí huệ thiêng liêng bất nhị, đồ trang sức châu báu rực rỡ bên trong của tất cả chúng sanh là mẹ ; đại lạc tối thượng, bất biến, vĩnh cửu ; tâm trí huệ bất hoại lộng lẫy giải thoát cho tất cả chúng sanh khỏi tất cả bất thiện của thân, ngữ và tâm, đặc biệt là những thệ nguyện cam kết bị hư hỏng.

Cúng dường mạn đà la
(Tùy ý lựa chọn : mạn đà la dài)

OM VAJRA-BHUMI AH HUM ! Đất vàng quyền uy / OM VAJRA-REKHE AH HUM ! Bên ngoài, tường vách chu vi bao vòng, ở trung tâmnúi Tu Di, vua của các núi / châu phía Đông, Videha / châu phía Nam, Jambudvipa / châu phía Tây, Godaniya / châu phía Bắc, Kuru / (những lục địa phụ) Deha và Videha / (phía nam) Camara và Apara-camara / (phía tây) Shatha và Uttaraman-trin / (và phía bắc) Kuru và Kauvara / (Trong bốn châu :) núi quý báu / cây ban cho điều muốn / con bò đáp ứng nguyện vọng / mùa màng không phải canh tác / (trên tầng thứ nhất của Núi Tu Di :) Bánh xe quý báu / Ngọc quý báu / Hoàng Hậu quý báu / Tể Tướng quý báu / Voi quý báu / Ngựa quý báu / Tướng quý báu / Cái Bình của Kho Tàng vĩ đại / (trên tầng thứ hai : tám thiên nữ,) Nữ Thần của sự Duyên dáng / Nữ Thần Tràng Hoa / Nữ Thần Bài Ca / Nữ Thần Khiêu Vũ / Nữ Thần Hoa / Nữ Thần Hương / Nữ Thần Đèn / Nữ Thần Hương Thơm / (trên tầng thứ ba :) mặt trời / mặt trăng / lọng báu / cờ phướn chiến thắng ở mọi góc / Ở trung tâm, những giàu có hoàn hảo nhất của chư thiênloài người, không thiếu sót thứ gì, thanh tịnhhân hoan / Con dâng cúng tất cả những thứ ấy như là một cõi Phật đến bổn sư và các guru truyền dòng rất đỗi từ ái, vinh quang và linh thánh / và đặc biệt đến Guru Vajrasattva bổn tôn // Xin hãy chấp nhận chúng với lòng bi mẫnchúng sanh luân lạc. Đã nhận chúng rồi, xin ban sự cảm ứng của các ngài cho con và tất cả chúng sanh luân lạc là mẹ khắp cả không gian từ lòng đại bi của các ngài.

(Tùy ý lựa chọn : mạn đà la ngắn)
Đất này tẩm ướp hương thơm, rải rắc bằng hoa,
Trang hoàng với núi Tu Di, bốn châu, mặt trờimặt trăng,
Con dâng cúng trong quán tưởng như cõi chư Phật.
Nguyện tất cả chúng sanh thọ hưởng tịnh độ này như vậy.

Mạn đà la bí mật

Chánh kiến về tánh Không là một với trí huệ của đại lạc. Trí huệ này chuyển hóa thành núi Tu Di, mặt trời, mặt trăng, và mọi hiện tượng khác trong vũ trụ. Con dâng cúng tất cả những thứ tráng lệ cho ngài, đại dương của đại từ, bậc giải thoátgiải thoát cho muôn loài.

Mạn đà la bên trong

Xin ban phước cho con và tất cả chúng sanh để được giải thoát tức thời khỏi ba độc, để con dâng cúng không mảy may ngần ngại hay bám luyến tất cả những đối tượng của tham, sân, si của con ; bạn bè, kẻ thù, và người xa lạ ; và thân thể con và tất cả tài sản của con. Xin chấp nhận tất cả những thứ này.

IDAM GURU RATNA MANDALAKAM NIRYATAYAMI
Tịnh hóa

“Thế Tôn Vajrasattva, xin tịnh hóa mọi bất thiện và những thệ nguyện bị hư hoại của chính con và tất cả chúng sanh.”

Vì lời thỉnh cầu này, ánh sáng rực rỡ phóng ra từ chuỗi thần chú và chữ HUM ở trái tim thiêng liêng. Nó tịnh hóa mọi bất thiện và che chướng của tất cả chúng sanhtrở thành một đồ dâng cúng cho tất cả chư Phật chư Bồ tát. Tinh túy của những phẩm tính toàn thiện của thân, ngữ, tâm linh thánh của các ngài trở lại thành ánh sáng, ánh sáng này tan vào chữ HUM và chuỗi thần chú.

(Từ chữ HUM và chuỗi thần chú) một dòng năng lực cam lồ lạc phúc màu trắng bắt đầu chảy xuống qua những luân xa của cặp đôi thiêng liêng. Nó chảy qua luân xa của sự kết hợpđi vào luân xa đỉnh đầu của tôi. Dòng cam lồ của trí huệ siêu việt này tràn đầy toàn thân tôi, phá hủy mọi bất thiện và che chướng của thân, ngữ, tâm của tôi. Những cái ấy hoàn toàn được tịnh hóa.

Trì tụng thần chú

OM VAJRA HERUKA SAMAYAM ANUPALAYA. HERUKA TENOPATISHTHA. DRIDHO ME BHAVA, SUTOSHYO ME BHAVA, SUPOSHYO ME BHAVA, ANURAKTO ME BHAVA, SARVA SIDDHIM ME PRAYACCHA, SARVA KARMA SUCHA ME CHITTAM SHREYAH KURU, HUM ! HA HA HA HA HOH ! BHAGAVAN VAJRA HERUKA MA ME MUNCHA, HERUKA BHAVA MAHA SAMAYA SATTVA AH HUM PHAT !

Những dâng cúng và tán than

OM VAJRASATTVA ARGHAM… SHABDA PRATICCHA HUM SVAHA
OM VAJRASATTVA OM AH HUM

Trí huệ bất nhị thiêng liêng, châu báu trang sức lộng lẫy bên trong của tất cả chúng sanh hữu tình là mẹ ; đại lạc tối thượng bất biến thường tồn ; tâm trí huệ tráng lệ bất hoại giải thoát cho tất cả chúng sanh khỏi mọi bất thiện của thân, ngữ, tâm, đặc biệt cho những thệ nguyện và cam kết bị hư hoại : con xin đảnh lễ ngài.

Quy y Heruka Vajrasattva

Bởi vô minhmê lầm, con đã làm hư hoại những cam kết của con. Hỡi Guru thiêng liêng, bậc có thần lực để giải thoát cho con, bậc đạo sư bên trong của con, bậc cầm giữ kim cương, bậc mà tinh túyđại bi vô ngại, Đấng của tất cả chúng sanh luân lạc, con quy y ngài.

Hòa tan

Vajrasattva nói, “Thiện nam tử (hay thiện nữ nhân), những bất thiện và che chướng và những cam kết bị hư hoại của con đã được tẩy sạch và tịnh hóa.” Bấy giờ ngài hòa tan vào trong tôi. Ba cửa (thân, ngữ, tâm) của tôi trở thành một, không tách lìa với thân, ngữ, tâm thiêng liêng của Vajrasattva.

Hồi hướng

Nhờ công đức này, nguyện tôi nhanh chóng trở thành Heruka Vajrasattva và dẫn dắt mỗi chúng sanh vào cảnh giới giác ngộ thiêng liêng.

Lời bạt

Vì sự thỉnh cầu khuyến khích từ nhiều người Tây phương thông tuệ cần đến một bản văn sadhana thực hành Vajrasattva để tẩy trừ những chướng ngại và làm lợi cho những giai đoạn của con đường và là một sơ khởi cho thiền định về hai giai đoạn (của tantra yoga tối thượng) một người được gọi là Muni Jnana (Thubten Yeshe) đã viết bản văn này như một đoạn trừ khẩn cấp mê lầm, thế nên người ấy cầu xin tha thứ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12529)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14116)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10859)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10529)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11203)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12011)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13168)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13660)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33681)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11345)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12940)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13067)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11643)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17905)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11452)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11870)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11519)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18987)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12563)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11352)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13157)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15788)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11831)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11706)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12783)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12641)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13979)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13006)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12958)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13305)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12785)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12716)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11763)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11742)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12347)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12394)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19836)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11975)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11999)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16896)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12682)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15070)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16130)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12898)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12252)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11926)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11934)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13164)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16517)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13237)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12504)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11832)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19870)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11170)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11268)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10408)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11105)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10980)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10045)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11761)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant