Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

98. Kinh Vàsettha (Vàsettha sutta)

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 16454)
98. Kinh Vàsettha (Vàsettha sutta)

Ðại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRUNG BỘ
Majjhima Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

98. Kinh Vàsettha
(Vàsettha sutta)

Như vầy tôi nghe. 

Một thời Thế Tôn trú ở Icchanankala (Y-xa-năng -gia-la), tại khu rừng Icchanankala. 

Lúc bấy giờ có rất nhiều Bà-la-môn danh tiếnggiàu có trú tại Icchanankala như Bà-la-môn Canki, Bà-la-môn Tarukkha, Bà-la-môn Pokkharasati, Bà-la-môn Janussoni, Bà-la-môn Todeyya cùng rất nhiều Bà-la-môn danh tiếnggiàu có khác. Rồi trong khi các thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja đang tản bộ du hành, câu chuyện sau đây được khởi lên: "Thế nào là một vị Bà-la-môn?"

Thanh niên Bharadvaja nói như sau: 

-- Nếu ai thiện sanh từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, như vậy là làm một vị Bà-la-môn. 

Thanh niên Vasettha nói như sau: 

-- Nếu ai có giới hạnhthành tựu các cấm giới, như vậy là một vị Bà-la-môn. 

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja không thể thuyết phục thanh niên Bà-la-môn Vasettha, và thanh niên Bà-la-môn Vasettha không thể thuyết phục thanh niên Bharadvaja. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha nói với thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja: 

-- Này Bharadvaja, Sa-môn Gotama này là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca, nay đang trú ở Icchanankala, tại khu rừng Icchanankala. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Gotama: "Ðây là Thế Tôn... Phật, Thế Tôn". Này Tôn giả Bharadvaja, chúng ta hãy đến Sa-môn Gotama, sau khi đến hãy hỏi Tôn giả Gotama về nghĩa lý này, và Sa-môn Gotama trả lời như thế nào, chúng ta sẽ như vậy thọ trì

-- Thưa vâng. 

Thanh niên Bà-la-môn Bharadvaja vâng đáp thanh niên Vasettha. Rồi thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến, nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, thanh niên Bà-la-môn Vasettha dùng những bài kệ bạch Thế Tôn

Chúng con cả hai người, 
Ðược tôn xưng, tự nhận, 

Là những bậc thông thái

Cả ba tập Vệ-đà. 

Con là đệ tử Ngài, 
Pokkharasati, 

Còn vị thanh niên này, 

Ðệ tử Tarukkha. 

Ba Vệ-đà nói gì, 
Chúng con đều thông đạt

Văn cúvăn phạm

Chúng con đều thấu hiểu, 

Thuyết giảnggiải thích

Thật giống bậc Ðạo sư. 

Tôn giả Gotama, 
Giữa hai người chúng con

Có sự tranh luận này, 

Về huyết thống thọ sanh. 

Bharadvaja nói: 
"Chính do sự thọ sanh".

Con nói: "Do hành động, 

Mới thành Bà-la-môn".

Mong bậc có Pháp nhãn
Hiểu cho là như vậy.

Cả hai người chúng con, 

Không thể thuyết phục nhau. 

Chúng con đến hỏi Ngài, 

Bậc Chánh Giác tôn xưng. 

Như trăng được tròn đầy, 
Quần chúng đến chấp tay,

Ðảnh lễ và chiêm ngưỡng

Cũng vậy, ở trong đời

Quần chúng đến đảnh lễ

Gotama Tôn giả

Chúng con đến hỏi Ngài, 
Bậc Pháp nhãn thế gian

Bà-la-môn do sanh, 

Hay chính do hành động? 

Chúng con không được biết, 

Hãy nói chúng con biết. 

Ðức Thế Tôn bèn nói:
Này Ông Vasettha, 
Ta trả lời cho Ông, 

Thuận thứnhư thật

Sự phân loại do sanh, 

Của các loại hữu tình

Chính do sự sanh đẻ, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem cỏ và cây, 
Dầu chúng không nhận thức

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loại côn trùng, 
Bướm đêm, các loại kiến, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loại bốn chân, 
Loại nhỏ và loại lớn, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem loài bò sát, 
Loại rắn, loại lưng dài, 

Chúng có tướng thọ sanh, 

Do sanh, có dị loại. 

Hãy xem các loại cá,
Loại sinh sống trong nước, 

Chúng có tướng thọ sanh,

Da sanh, có dị loại. 

Hãy xem các loại chim, 
Loại có cánh trên trời

Chúng có tướng thọ sanh,

Do sanh, có dị loại. 

Tùy theo sự thọ sanh, 
Chúng có tướng tùy sanh. 

Trong thế giới loài Người

Tướng sanh không có nhiều.

Không ở đầu mái tóc, 
Không ở tai, ở mắt,

Không ở miệng, ở mũi, 

Không ở môi, ở mày, 

Không ở cổ, ở nách, 

Không ở bụng, ở lưng, 

Không ở ngực, ở vú, 

Không âm hộ, hành dâm. 

Không ở tay, ở chân, 
Không ở ngón, ở móng, 

Không ở cổ chân, vế, 

Không ở sắc, ở tiếng. 

Không tướng, do tùy sanh, 
Tùy sanh, loại sai khác.

Trên tự thân con người

Không có gì đặc biệt

Chỉ tùy theo danh xưng, 

Loài Người được kêu gọi.

Ðối người tự sinh sống. 
Chăn bò, lo ruộng đất, 

Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nông phu, 

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống theo nghề nghiệp, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là công thợ, 

Không phải Bà-la-môn.

Ai sống nghề buôn bán, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là thương nhân

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống hầu hạ người, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nô bộc

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống lấy của người,
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là kẻ trộm

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống nghề cung tên, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là nhà binh, 

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống nghề tế tự, 
Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là tế quan

Không phải Bà-la-môn. 

Ai sống giữa loài Người
Thọ hưởng làng, quốc độ

Vasettha hãy biết, 

Kẻ ấy là vua chúa, 

Không phải Bà-la-môn. 

Và Ta không có gọi, 
Kẻ ấy Bà-la-môn. 

Chỉ vì do thọ sanh, 

Dầu vị ấy cao sang, 

Dầu vị ấy giàu có

Nhưng còn ham thế lợi. 

Không tham lam thế lợi, 
Không chấp thủ sở hữu

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Vị đoạn tận kiết sử
Không ai không sợ hãi

Siêu việt mọi chấp trước

Thoát ly các hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Cắt dây thừng, dây ách, 
Dây cương, cùng dây trói, 

Quăng đi cây chắn ngang, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Bậc sáng suốt, giác ngộ

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không lỗi, chịu đựng
Nhiếc mắng cùng đánh trói, 

Trang bị với nhẫn lực

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Không phẫn nộ, giữ luật, 
giới hạnh không kiêu, 

Nhiếp phục, thân tối hậu

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Như nước trên lá sen
Hột cải trên đỉnh nhọn, 

Không tham luyến dục vọng

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết ngay đời này
Khổ vì ngã đoạn tận, 

Gánh nặng được đặt xuống, 

Xa lìa các hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Tuệ thâm sâu, có trí
Thiện xảo đạo phi đạo, 

Ðích tối thượng đạt được

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn.

Ai không còn liên hệ
Cả tại gia, xuất gia

Không nhà trú, thiểu dục

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Bỏ gậy đối chúng sanh
Kẻ yếu cùng kẻ mạnh, 

Không giết, không hại ai, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Giữa kẻ thù, không thù, 
Giữa hung bạo, an tịnh

Giữa chấp thủ, không chấp

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Dối, tham, sân, mạn, phú, 
Ai bỏ rơi được chúng, 

Như hột cải rơi khỏi. 

Ðầu nhọn của mũi kim, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai dạy thật nhỏ nhẹ
Nói lên lời chơn thực, 

Không xúc chạm một ai, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Dài ngắn hay lớn nhỏ, 
Thanh tịnh hay bất tịnh

Ở đời vật dài ngắn, 

Lớn, nhỏ, tịnh, bất tịnh

Không lấy vật không cho, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Với ai không tham cầu, 
Ðời này và đời sau

Từ bỏ mọi tham cầu, 

Ðoạn rời mọi hệ phược,

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp tàng, 
Với trí đoạn nghi hoặc

Ðạt nhập đáy bất tử

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời ai vượt khỏi, 
Mọi buộc ràng thiện ác

Không sầu, không bụi uế, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không uế, thanh tịnh
Không gợn, sáng như trăng, 

Hỷ, hữu được đoạn trừ, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai vượt qua hiểm lộ, 
Ác lộ, luân hồi, si, 

Vượt khỏi, đến bờ kia, 

Thiền tư, không dao động

Ðoạn trừ mọi nghi hoặc

An tịnh, không chấp trước, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ dục vọng
Không nhà, sống xuất gia

Ðoạn trừ dục và hữu, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chanh danh Bà-la-môn. 

Ở đời, bỏ tham ác, 
Không nhà, sống xuất gia

Ðoạn trừ ác và hữu, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai từ bỏ nhân ách, 
Vượt qua cả thiên ách, 

Ðoạn trừ mọi ách nạn, 

Thoát ly mọi hệ phược

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Từ bỏ lạc, bất lạc
Thanh lương, không y trú, 

Chiến thắng mọi thế giới

Bậc anh hùng dũng mãnh

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết thật hoàn toàn
Sự sanh diệt chúng sanh

Không tham trước, Thiện Thệ

Giác ngộ, đạt chánh giác

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Không biết chỗ sở thủ
Thiên, Nhân, Càn-thát-bà, 

Lậu hoặc được đoạn trừ, 

Bậc �ng Cúng, La-Hán, 

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai không có chấp trước
Ðời trước, sau, đời này, 

Không chấp, không sở hữu

Kẻ ấy Ta mới gọi, 

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ngưu vương, bậc Tối thắng
Anh hùng, bậc Ðại sĩ, 

Bậc Chinh phục, Bất động

Tắm sạch, bậc Giác Ngộ

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ai biết được đời trước, 
Thấy được thiện, ác thú

Ðạt được sanh diệt đoạn, 

Kẻ ấy Ta mới gọi,

Chánh danh Bà-la-môn. 

Ðiều thế giới cho gọi,
Là "tên" và "gia tộc", 

Chỉ tục danh, thông danh, 

Danh từ khởi nhiều chỗ. 

Ðã lâu đời chấp trước
Tà kiến của kẻ ngu,

Kẻ ngu tự tuyên bố

Bà-la-môn do sanh. 

Không phải do sanh đẻ, 
Ðược gọi Bà-la-môn, 

Không phải do sanh đẻ, 

Gọi phi Bà-la-môn. 

Chính do sự hành động
Ðược gọi Bà-la-môn, 

Chính do sự hành động

Gọi phi Bà-la-môn. 

Hành động làm nông phu, 
Hành động làm công thợ, 

Hành động làm lái buôn, 

Hành động làm nô bộc

Hành động làm ăn trộm
Hành động làm nhà binh. 

Hành động làm tế quan

Hành động làm vua chúa. 

Kẻ trí thấy hành động, 
Như thật là như vậy. 

Thấy rõ lý duyên khởi

Biết rõ nghiệp dị thục.

Do nghiệp, đời luân chuyển
Do nghiệp, người luân hồi

Nghiệp trói buộc chúng sanh

Như trục xe quay bánh. 

Do khổ hạnh, Phạm hạnh
Tiết chếchế ngự

Tác thành Bà-la-môn. 

Bà-la-môn như vậy, 

Mới thật là tối thượng

Ba Vệ-đà thành tựu
An tịnh, tái sanh đoạn, 

Vesettha nên biết, 

Kẻ ấy được Phạm thiên

Ðược Thiên chủ Sakka, 

Biết đến thật tường tận. 

Khi được nghe nói vậy, hai thanh niên Bà-la-môn Vasettha và Bharadvaja bạch Thế Tôn:

-- Thật vi diệu thay, tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Thưa Tôn giả Gotama, nay con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Phápquy y chúng Tỷ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận chúng con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, chúng con trọn đời quy ngưỡng

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13737)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25448)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13821)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15152)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17754)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17145)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14259)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13235)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14493)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19828)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16791)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18683)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19115)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18940)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21204)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14832)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39220)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19447)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14767)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16190)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14753)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15262)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14963)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15602)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39225)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14177)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24579)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14434)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19505)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18074)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21517)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19727)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17564)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14891)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13934)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13809)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14170)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21961)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16783)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15269)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14589)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14107)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14398)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15703)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14357)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15068)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18620)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24723)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23159)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28621)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15093)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14156)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14699)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18367)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26572)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15248)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14890)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15237)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15214)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant