Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1 – Bốn chân lý cao quý trong ngôn ngữ hằng ngày

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9721)
1 – Bốn chân lý cao quý trong ngôn ngữ hằng ngày

NGHIỆP BÁO
Giới Thiệu Tổng Quát
Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữTuệ Uyển

1 – BỐN CHÂN LÝ CAO QUÝ TRONG NGÔN NGỮ HẰNG NGÀY

Chúng tôi rất vui mừng hiện diện nơi đây một lần nữa tại Xalapa, và chủ đề mà tôi đã từng được yêu cầu để nói tối nay là nghiệp báo. Dĩ nhiên, khi chúng ta nghiên cứu về một chủ đề nào đấy trong Phật giáo, điều quan trọng để có một ý tưởng nào đấy về việc tại sao chúng ta muốn tìm hiểu về nó, điều quan trọng của nó là gì, và tại sao nó phù hợp trong toàn bộ phạm vi của Phật giáo. Một cách căn bản Đức Phật nói về kinh nghiệm của mỗi người, những điều chúng ta kinh nghiệm trong đời sống, những gì sẽ xảy ra. Nền tảng căn bản quan trọng nhất của điều mà tất cả chúng ta kinh nghiệm, mọi người kinh nghiệm là gì? Đôi khi chúng ta buồn rầu, và thỉnh thoảng chúng ta vui vẻ. Đây là cung cách mà kinh nghiệm chúng ta trãi qua trong đời sống của chúng ta, có phải không?

Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy. Khi chúng ta không vui, rõ ràng, đó là khổ não. Không ai thích u sầu, có phải thế không? Chúng tathể không vui trong việc nhìn thấy mọi việc, giống như một người bạn đi xa, hay nghe về những việc, những ngôn ngữ khó chịu, và chúng ta cũng có thể không vui khi nghĩ về nhiều việc khác nhau với nhiều loại cảm xúc khác nhau. Nhưng thỉnh thoảng chúng ta cảm thấy không vui và dường như không có bất cứ một liên hệ với bất cứ những gì chúng ta thật sự nghe và thấy, hay những gì đang xãy ra chung quanh chúng ta. Đây là một vấn đề, có phải không?

Nhưng về niềm vui thì thế nào? Đôi khi chúng ta cảm thấy vui vẻ, có phải không? Chúng ta cảm thấy vui nghĩ về điều gì đấy, như nhớ lại một thời điểm tuyệt vờichúng ta có với ai đấy. Nhưng khi chúng ta nhìn sâu xa hơn, chúng ta thấy rằng niềm vui này mà chúng ta trãi qua có một vài vấn đề liên hệ với nó. Trước tiên nhất, nó không bao giờ kéo dài, và chúng ta không biết nó sẽ kéo dài bao lâu. Và dường như nó chẳng bao giờ đủ. Chúng ta có thể vui khi ăn một muỗng thức ăn, nhưng điều ấy không đủ - chúng ta muốn ăn thêm và thêm và ăn thêm nữa. Thật sự, đấy là một câu hỏi rất thú vị - khối lượng là bao nhiêu của vật gì đấy mà chúng ta phải ăn nhằm đề thật sự hưởng thụ một cách thích thú với nó? Hãy nghĩ về điều ấy là vấn đề đầu tiên. Một điều sai lầm khác, một thoáng khác của niềm vui này là chúng ta không biết điều gì sẽ xãy ra tiếp theo. Chúng ta có thể tiếp tục vui trong giây phút tiếp theo, hay chúng ta có thể buồn. Nó có thể thay đổi, vì thế không có gì bảo đảm trong niềm vui này.

Thật sự đối với Phật giáo loại quán chiếu hay phân tích này vào trong niềm vui và nổi buồn không phải là điều gì đặc biệt; nhiều đại tư tưởng gia trên thế giới đã từng quán chiếu điều này và giảng dạy về điều này. Nhưng những gì Đức Phật dạy, những gì Đức Phật thấu hiểu là sâu xa hơn về vấn đề này hay khổ đau. Ngài nhìn một cách sâu sắc hơn vào sự thăng trầm trong hoàn cảnh đời sống của mỗi người, và những gì Ngài thấu hiểu là nguyên nhân cho niềm vui ấy thật sự là bộ phận của mỗi thời khắckinh nghiệm của chúng ta trải qua. Nói cách khác, cung cách mà chúng ta kinh nghiệm mọi việc với sự lên và xuống của vui và buồn không ngừng đấy là hoàn cảnh không hài lòng.

Thế nên, sau đó, Đức Phật nhìn và thấy nguyên nhân nào ở tại đấy trong mỗi thời khắc và điều gì tiếp diễn liên tục trong hoàn cảnh không hài lòng này, và Ngài thấy rằng nó là sự mê mờ về thực tại, sự rối rắm về hiện thực, hay sự bất giác về hoàn cảnh. Nói cách khác, mê mờ về việc chúng ta hiện hữu như thế nào, mỗi người chung quanh chúng ta tồn tại như thế nào, về thế giới hiển hiện như thế nào.

Điều này là hoàn toàn khác biệt với những gì nhiều người khác đã từng nói. Thí dụ, một số những người khác đã từng nói, sự lên và xuống của vui và buồn mà kinh nghiệm chúng ta trãi qua một cách căn bản do bởi tưởng thưởng và trừng phạt: từ việc tuân thủ luật pháp hay từ việc không tuân theo luật lệVấn đề căn bản cho việc cảm thấy vui vẻ hay buồn rầu là ‘vâng lời’, theo ý kiến của nhiều vị thầy. Nhưng Đức Phật nói rằng: không, không phải trường hợp ấy. Nguyên nhân thật sự của sự mê mờ của chúng ta, không là vấn đề của vâng lời hay không vâng lời; nó là sự biểu hiện mê mờ về đời sống. Sau đó, Đức Phật tiếp tục nói rằng sự mê mờ rối rắm ấy không nhất thiếttoàn bộ sự sống, của việc chúng ta nếm mùi hay kinh nghiệm mọi việc như thế nào. Nó không phải ở đó: nó là điều gì đấy mà có thể di chuyển được, và nó có thể cởi bỏ được một cách hoàn toàn, để nó không bao giờ trở lại. Rồi thì Ngài nói rằng cách thật sự để làm thế là hãy thay đổi cung cách kinh nghiệm mọi thứ của chúng ta.

Từ bỏ sự mê mờ ấy không phải là vấn đề yêu cầu người nào khác để tháo bỏ nó cho chúng ta, nhưng một cách căn bản đấy là vân đề thay đổi chính thái độ của chúng ta, sự thấu hiểu của chúng ta về thực tại. Nếu chúng ta có thể thay thế sự không hiểu biết với sự thông hiểu và sau đó sở hữu sự thông hiểu này trong mọi lúc, rồi thì chúng ta khám phá ra rằng chúng ta không có sự lên và xuống liên tục của vui và buồn này, và chúng ta không ghi nhớ mãi sự lên và xuống của vui và buồn. Vì thế, đấy là một giáo huấn vô cùng căn bản của Đức Phật, đặt nó vào trong chính ngôn ngữ hằng ngày.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14852)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11927)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12833)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10427)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12141)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15363)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11177)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10616)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12539)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16519)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14400)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11866)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14882)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12117)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16951)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11641)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12796)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11418)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12150)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52351)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15561)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14049)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11498)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13249)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12864)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13316)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 18004)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12536)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12734)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54308)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14498)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 10002)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13887)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58175)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14581)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20246)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13874)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15487)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17591)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13373)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11966)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13553)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14725)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12561)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12200)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12122)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13346)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12613)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13719)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13393)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25723)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12236)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14630)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11918)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42156)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28433)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38911)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14795)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12782)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16336)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant