Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10 – Giải thoát sự mê muội của chúng ta

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 10872)
10 – Giải thoát sự mê muội của chúng ta

NGHIỆP BÁO
Giới Thiệu Tổng Quát
Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữTuệ Uyển

10 –GIẢI THOÁT SỰ MÊ MUỘI CỦA CHÚNG TA

Khi chúng ta nhìn vào cơ cấu về việc những khuynh hướng và những thói quen nghiệp báo chín muồi như thế nào, một cách đặc biệt những khuynh hướng, rồi thì tất cả phải hành động với thái độ của chúng ta đối với niềm vui và nỗi buồn lên xuống này mà chúng ta trải qua. Chúng ta có hai nhân tố tinh thần mà chúng đồng hành với những kinh nghiệm vui buồn và chúng nổi bật ở đây. Thứ nhất gọi là “tham dục.” Khi chúng ta kinh qua hạnh phúc, chúng ta khẩn cầu ao ước – có nghĩa là chúng ta có một lòng khao khát rất mạnh mẽ - không phải tách rời khỏi điều ấy. “Đừng bỏ đi, ở lại đây với tôi, người có thể ở lại lâu hơn” – việc như thế này xảy ra khi chúng a đang cùng vui thú với ai đấy. Hay chúng ta đang hưởng thụ và cảm thấy hạnh phúc với việc ăn sô cô la và vì thế chúng ta không muốn bị tách rời khỏi niềm vui ấy. Do bởi thế, chúng ta tiếp tục ăn nữa và nữa và nữa và nữa, có phải thế không? Đó là tham dục. Rồi thì, khi chúng ta kinh qua bất hạnh, trãi qua đau buồn, chúng ta muốn được tách rời khỏi chúng một cách nhanh nhất có thể được. Bên dưới của cả hai thứ buồn vui là nhân tố thứ hai – một thái độ mạnh mẽ của cái “tôi” rõ ràng, một cái “tôi” vững chắc, với những gì chúng ta đang trải qua. Tôi phải tìm để có niềm vui này và bất cứ nó là gì, nó cho tôi niềm hạnh phúc, nữa và hơn nữa, và không bị tách rời khỏi nó. Tôi phải tách biệt với những gì tôi không thích. Tôi không thích bạn nói, vì thế tốt hơn là bạn hãy im đi hay tôi sẽ quát bạn.

Khi chúng ta kinh nghiệm buồn vui lên xuống trong cuộc sống của chúng ta với niềm tham dục khao khát này và một sự minh định và một cái “tôi” vững chắc với những gì sẽ diễn tiến – cái “tôi”, điều mà rốt cùng căn cứ trên sự mê muội, bất giác – điều này làm nên tất cả những khuynh hướng nghiệp báo đi đến chín muồi. Trong cách ấy, chúng ta đang liên tục không ngừng với sự thăng trầm của niềm vui, lên xuống của nổi buồn và đang lập lại tất cả những thái độ trước đây của chúng ta, bởi vì đây là những gì chín muồi từ những thiên hướng ấy. Điều thật sự ghê gớm là sự mê muội này ở đấy với mỗi thời khắc của vui và buồn, hạnh phúc và khổ đau. Nó ghi nhớ mãi những thời khắc của hạnh phúc và khổ đau, mà chúng cũng sẽ là với mê muội. Sự mê muộichúng ta trãi qua bây giờ là kết quả của sự si ám trước đây, khi chúng ta đang kinh nghiệm hạnh phúc và buồn đau (của quá khứ).

Vòng tuần hoàn tái diễn không thể kiểm soát này, sự tự tuần hoàn không ngừng này– chính là điều mà Phật giáo gọi là “luân hồi-samsara.” Nếu chúng ta có thể giải thoát khỏi sự mê muội này, thế thì toàn bộ hệ thống của nghiệp báo tan vở thành từng mãnh và chúng ta được giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Nếu chúng tat hay thế sự mê muội này với một sự thấu hiểu đúng đắn – và chúng tôi sẽ không đi vào chi tiết, chỉ cho những quan điểm tổng quát – nếu chúng ta thay thế sự mê mờ này với sự thông hiểu đúng đắn, trong trường hợp này không có cơ sở cho cái “tôi” vững chắc – không căn cứ địa cho điều “tôi phải có điều này và không có điều kia.” Không có tham dục, vì thế không có sự khởi động hay đánh thức những khuynh hướng và thói quen này, bạn không thể nói rằng bạn vẫn còn có những khuynh hướng và thói quen.

Chúng tôi cố gắng đưa ra một thí dụ. Nếu có một xu hướng để thấy những con khủng long, thế thì khi những con khủng long bị tiệt chủng, không còn khuynh hướng để thấy những con khủng long nữa khi bạn đi qua khu rừng, có phải thế không? Đã thường có khuynh hướng này: khi chúng ta đi qua một khu rừng tôi luôn luôn thấy khủng long. Bây giờ không còn khủng long nữa, thế nên không còn gì tạo nên khuynh hướng để thấy khủng long nữa. Dùng thí dụ ấy, khi không còn gì tạo nên một khuynh hướng làm cho chín muồi – một con khủng long đi trước mặt chúng ta, tạo nên khuynh hướng để thấy một con khủng long chín muồinếu không có gì đánh thức khuynh hướng ấy, chúng ta không có khuynh hướng ấy nữa. Và nếu những khuynh hướng nghiệp báo không đi đến chín muồi nữa bởi vì không có những khuynh hướng ấy nữa, thế thì chúng ta không trãi qua sự thăng trầm của hạnh phúc hay lên xuống của buồn đau nữa, chúng ta cũng không còn kinh nghiệm bất cứ sự mê muội nào với nó nữa; điều đó cũng mất rồi.

Đây là cách, là con đườngchúng ta được giải thoát khỏi toàn bộ tình trạng luân hồi này. Chúng ta không còn kinh qua sự không hài lòng, không bảo đảm thăng trầm của hạnh phúc và buồn đau, nhưng thay vì thế chúng ta có một kinh nghiệm rất vững chãi một loại an lạc hạnh phúc rất khác biệt, một phẩm chất rất khác biệt – không phải loại hạnh phúc lẫn lộn với mê muội, và không phải loại hạnh phúc “tôi thắng cuộc chơi và vì thế đây là phần thưởng của tôi.” Đấy là loại an lạc hạnh phúc mà chúng ta kinh nghiệm từ sự tự do với những hoàn cảnh khó khăn. Chúng tôi nghĩ một thí dụ đơn giản, mặc dù không là một thí dụ chính xác, cho sự tiếp cận với những gì mà điều này đang nói về sẽ là niềm hạnh phúcchúng ta cảm nhận khi chúng ta lấy một chiếc giày chật cứng vào cuối một ngày – đấy là một niềm vui thư tháichúng ta tự do khỏi sự đau đớn đó.

Cũng thế, những gì chúng ta kinh nghiệm với sự giải thoát, kinh qua với sự tự do là những hành động của chúng ta không còn bị lèo lái bởi những thúc đẩy bắt buộc của nghiệp báo với điều mà chúng ta hành đọng trong một cách nào đấy, kinh nghiệm những điều nào đấy. Đúng hơn, nếu chúng ta đang hành động, vươn khỏi chỉ sự giải thoát, để trở thành một vị Phật, những gì lèo lái cho hành động của chúng tatừ bi (từ ái và bi mẫn) – một nguyện ước cho những người khác được tự do với nổi khổ và nguyên nhân của đau khổ ấy của họ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14907)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11986)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 12888)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10470)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 12184)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15429)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11219)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10670)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12593)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 16564)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 14469)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 11915)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14941)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12169)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 17024)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11695)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 12846)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 11465)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12202)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52521)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15616)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14104)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11551)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13294)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12924)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
(Xem: 13354)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 18057)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12566)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 12794)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 54383)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14535)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 10055)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13926)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58322)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 14640)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20351)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13925)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15541)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17645)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 13401)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11997)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 13592)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 14747)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12614)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12223)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 12167)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13395)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12664)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 13741)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13408)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 25802)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 12258)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 14684)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 11931)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42196)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 28488)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 38978)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14835)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12821)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16365)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant