Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7 – Thái độ xây dựng và tàn phá

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9011)
7 – Thái độ xây dựng và tàn phá

NGHIỆP BÁO
Giới Thiệu Tổng Quát
Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữTuệ Uyển

7 – THÁI ĐỘ XÂY DỰNG VÀ TÀN PHÁ

Bây giờ điều trở nên rất hấp dẫn khi chúng ta khảo sát những gì Phật giáo muốn nói qua xây dựng và tàn phá. Một cách tự nhiên có vài giải thích về điều này. Nhưng khi chúng ta thấy, chúng ta không thật sự định rõ bản tính tự nhiên của một hành động trong những dạng thức ảnh hưởng nó có trong ai đấy khác, bởi vì người biết điềutác động sẽ là: có rất nhiều những nhân tố khác sẽ bị tác động. Thế nên xây dựng và tàn phá phải hành động với một tình trạng của tâm thức, với điều mà chúng ta hành động. Nếu chúng ta hành động căn cứ trên tham lam, hay dính mắc, hay sân hận, hay ngu ngơ khờ khạo, thế thì nó là tàn phá. Trái lại, nếu chúng ta hành động trên căn bản không sân hận, không tham lam, không bị dính mắc, không ngốc ngếch si mê, thế thì nó là xây dựng. Một cách rõ ràng nếu hơn thế nữa, nếu nó căn cứ trên từ ái và bi mẫn, bố thí, v.v… nó cũng là xây dựng.

Cũng có những nhân tố khác. Rất thú vị để thẩm tra những nhân tố khác này mà nó làm một hành động xây dựng hay tàn phá. Một nhân tố là đạo đức tự giác, hay hạnh kiểm tự giác (tự tàm: thẹn với mình). Điều đó phải hoạt động với sự tự hình dung chúng ta và tự trọng của chúng ta. Nếu chúng ta không có sự tự trọng, thế thì chúng ta không quan tâm đến tác động thái độ của chúng ta đối với chính chúng ta. Nó là thái độ của “bất cứ điều gì.” Với loại tự trọng thấp, chúng ta hành động một cách tàn phá. Nói cách khác, nếu chúng ta nghĩ về chính mình trong những cách tích cực, nếu chúng ta tôn trọng chính mình như một người, thế thì chúng ta không hành động như một kẻ ngốc. Chúng ta sẽ không hành động một cách ngu dại, tàn nhẫn, bởi vì chúng ta không muốn tự hạ thấp mình để hành động trong cách đó – chúng ta có một ý niệm cao thượng hơn nhiều về chính mình, của những gì chúng ta có thể hành động. Đây là một nhân tố, chúng ta nói đến ở đây: hoặc là có một ý nghĩa đạo đức tự giác (tự tàm) hay không có ý nghĩa của đạo đức tự thẹn. Đây là một nhân tố vô cùng cốt yếu để quyết định hoặc là chúng ta hành động trong một cách xây dựng hay một cách tàn phá.

Một nhân tố khác quan tâm đến thái độ chúng ta phản chiếu trên những người khác. Chúng ta đang nói về điều gì? Nếu chúng ta hành động trong một cách khủng khiếp, nó phản chiếu thế nào trên gia đình chúng ta? Nó phản ánh thế nào trên quê hương chúng ta? Nếu chúng ta hành động bằng một cách dễ sợ, người ta sẽ nghĩ gì về người Mễ Tây Cơ? Bởi vì chúng ta có đủ lòng tôn trọng đối với gia đình, hội nhóm của chúng ta, hay bất cứ nó có thể là gì – tôn giáo, quốc gia, thành phố - với ý nghĩa quan tâm về tác động của thái độ chúng ta, với sự quan tâm về thái độ của chúng ta phản chiếu trên những người khác (quý tha: thẹn với người), nếu chúng ta có điều ấy, chúng ta sẽ kềm chế khỏi những hành vi tàn phá; nếu chúng ta không có nó, chúng ta sẽ hành động một cách tàn phá. Đây là một tuệ giác nội quán thậm thâm của Đạo Phật. Nhân tố cốt yếu là gì? Tự trọng, tự tàm và một ý nghĩa quý trọng cộng đồng của chúng ta.

Điều này cho chúng ta một tuệ giác nội quán to lớn vào trong một số nhân tố cần thiết được đem vào sự quan tâm trong những dạng thức đối phó với khủng bố. Nếu chúng ta tước đoạt một con ngườicộng đồng của họ với mọi ý nghĩa của tự trọng về họ, làm cho đời sống của họ thật sự khủng khiếp và suy nghĩ những thứ kinh khủng về họ, họ cảm thấy rằng không có gì quan trọng đối với những gì họ cố gắng hành động. Nếu họ không có ý thức về tự trọng hay giá trị cộng đồng của họ, thế thì tại sao không hành động một cách tàn phá? Họ cảm thấy rằng họ không có gì để mất. Chúng tôi nghĩ rằng điều này là một việc hổ trợ để nhớ lại trong dạng thức của việc chúng ta đối phó như thế nào với người khác, một cách đặc biệt trong những hoàn cảnh rắc rối trên thế giới. Điều quan trọng là đừng bao giờ tước đoạt ý thức tự trọng của ai đấy hay một cảm giác chân giá trị cộng đồng của họ.

Cũng có một vài nhân tố tinh thần liên quan ở đây với điều làm nên một hành động tàn phá hay làm nên một việc làm xây dựng. Nó cũng là những thứ giống như thừa nhận sự thực rằng cung cách chúng ta hành động và xử sự đối với người khác sẽ ảnh hưởng đến họ. Điều này ám chỉ đến việc có một ý nghĩa của quan tâm hay chăm sóc – Chúng tôi gọi nó là “thái độ thận trọng.” Nhưng đôi khi chúng ta rất ngu ngơ, chúng ta nghĩ rằng chúng ta nói bất cứ điều gì đến người kia và chúng chẳng can hệ gì. Chúng ta không thật sự quan tâm đến cảm giác của người khác một cách nghiêm chỉnh. Thế thì chúng ta thiếu vắng một thái độ thận trọng.

Nếu chúng ta hành động với những loại thái độ tinh thần này – tham lam, sân hận, không có ý nghĩa tự trọng, không quan tâm đối với điều gì chúng ta thật sự phản chiếu trên người khác, không cẩn trọng, không lưu ý một cách nghiêm chỉnh rằng những gì chúng ta hành động sẽ có một ảnh hưởng đến những người khác và cũng có một tác động đến chính chúng ta – kết quả của điều ấy là gì? Bất hạnh, buồn phiền. Nổi buồn phiền này, nó là một sự trừng phạt, thế ấy.

Chúng ta cần phải suy nghĩ một cách hoàn toàn sâu sắc thật sự về điều này. Có phải thể trạng tâm thức với tất cả những nhân tố tiêu cực này thật sự là một tình trạng vui vẻ hạnh phúc của tâm tư, và có phải nó thật sự phát sinh một kinh nghiệm hạnh phúc trong chúng ta? Hay nó chỉ có thể sinh ra bất hạnh buồn phiền? Nếu chúng ta càng nghĩ về nó hơn nữa, nó thật sự làm nên ý nghĩa rằng tình trạng ấy của tâm tư, thể trạng ấy của tâm thức, sẽ đưa đến kết quả trong kinh nghiệm bất hạnh buồn phiền, và nếu chúng ta có chó một thể trạng đối ngược lại của tâm thức, không có tham lam, sân hận, và tất cả những điều khác này, nó sẽ sản sinh hạnh phúc . Do thế, chúng ta có những thái độ đặc trưng phổ biến này – xây dựng và tàn phá – và chúng sẽ đưa đến kết quả trong những kinh nghiệm hạnh phúc hay bất hạnh.

Thêm nữa, sau đó chúng ta có những loại hành động đặc thù mà chúng ta hành động: la lối vào ai đấy, hay thể hiện sự ân cần đến ai đấy, và v.v…, và những loại này cũng có những ảnh hưởng trong hình thức của những khuynh hướng để lập lại thái độ hay những khuynh hướng ấy để đi đến những tình cảnh mà trong ấy những người khác hành động trong cách nào đấy đến chúng ta.

Một kết quả khác của thái độ nghiệp báo của chúng ta – nhưng không cần thiết phải đi vào những chi tiết to lớn ở đây – liên hệ đến loại tái sinh nào mà chúng ta có: chúng ta sẽ tái sinh với một thân thểtâm thức của một con chó, một con gián, hay của một con người. Loại thân thểtâm thứcchúng ta sẽ có là thế nào như phạm vi cho những kinh nghiệm nào đấy xảy ra đến chúng ta và sự hành động của chúng ta trong một cung cách nào đấy. Có nhiều chi tiết khác ở đây, những chúng tôi muốn chỉ bao quát trong thuyết trình giới thiệu này, những nguyên tắc phổ biến nhất.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12590)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10486)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12444)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11742)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28912)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12138)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13099)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11538)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12453)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17569)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53267)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35597)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21605)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10757)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19398)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12519)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26214)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13444)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14491)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16166)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13831)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16951)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17757)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13250)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12627)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11710)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11710)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14624)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20634)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19179)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19716)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18820)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12269)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12432)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13976)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15181)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15148)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14077)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15618)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11502)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17329)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15124)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20333)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14707)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13948)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11805)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15163)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13076)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22994)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14644)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11745)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13255)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16985)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18444)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 12018)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11588)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15965)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12978)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 19012)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18576)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant