Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12 - Hỏi & đáp

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9055)
12 - Hỏi & đáp

NGHIỆP BÁO
Giới Thiệu Tổng Quát
Tác giả: Alexander Berzin - Chuyển ngữTuệ Uyển

12 – HỎI ĐÁP

HỎI: Trong phạm vi này, tội lỗi không có trong tấm ảnh? Không có việc gì với tội lỗi ở đây, có phải không?

ĐÁP: Đúng thế. Sự giải thích của Đạo Phật về nghiệp báo không liên can gì đến tội lỗi. Tội lỗi là căn cứ trên sự suy nghĩ trong những hình thức của một cái “tôi” rất mạnh mẽ vững chắc như một thực thể tồn tại riêng biệt và những gì tôi đã làm như một thực thể riêng lẻ khác, giống như hai quả bóng bàn, hay điều gì ấy giống như thế. Và sau đó chúng ta tin tưởng rằng thực thể cái “tôi” là quá tệthực thể “những gì tôi đã làm” cũng là tệ hại. Vì thế cũng có một sự phán đoán của hai thực thể dường như vững chắc và rồi thì không thể buông xả được – đó là tội lỗi. Giống như chẳng bao giờ vất rác ra khỏi nhà chúng ta, mà chỉ giữ nó bên trong và nói nó ghê tởm như thế nào, nó hôi thối như thế nào, nó nhơ bẩn như thế nào, và chẳng bao giờ buông bỏ.

HỎI: Nghe có vẻ rất rõ ràng và rất hơp lý (logic), và tôi có thể hiểu toàn bộ hệ thống, và làm thể nào giải thoát khỏi sự mê muội, và sự những khuynh hướng thúc đẩy cùng mọi thứ. Nhưng tôi nghĩ rằng thấu hiểu nó chưa đủ để giải thoát ngay bây giờ đối với những kinh nghiệm hay sự thúc đẩy hành động một cách bắt buộc.

ĐÁP: Đúng thế. Vâng, đấy là tại sao trước tiên chúng ta cần thực nghiệm đạo đức tự giác (tự tàm). Hãy nhớ là, chúng ta đề cập rằng có một khoảng cách nhỏ giữa điều khi tôi cảm thấy giống như muốn nói, “Ô thật là một bộ đồ xấu xí mà bạn mặc hôm nay,” và khi tôi thật sự nói nó. Nếu chúng ta có thể nắm bắt khoảng không gian ấy, thế thì chúng ta có khả năng để quyết định những gì sẽ ảnh hưởng nếu tôi nói với người ấy rằng người ấy đang mặc một bộ đồ xấu xí. Và nếu chúng ta thấy rằng điều ấy sẽ không là sản phẩm tốt đẹp chúng ta không phát hành nó. Đấy là nơi chúng ta bắt đầu – với nguyên tắc đạo đức và sự tự kiểm soát.
Cũng thế, chúng ta có thể thẩm tra cảm xúc nào tôi đang cảm nhận khi tôi muốn làm việc gì ấy? Tại sao tôi ao ước làm việc gì ấy căn cứ trên một cảm xúc phiền não, chẳng hạn như tham lam? Có phải nó căn cứ trên sân hận; có phải nó căn cứ trên si mê? Tôi có nghĩ rằng nếu nói bộ đồ của bạn là xấu xí sẽ không có bất cứ ảnh hưởng nào đối với bạn? Hay có phải tôi ao ước làm việc gì đấy căn cứ trên sự tử tế ân cần, và đây là những việc tích cực hơn? Đây là tại sao sự định nghĩa của một cảm xúc phiền não hay một thái độ quấy rầy là rất hữu ích: nó một tình trạng của tâm thức, là thứ, mà khi nó sinh khởi, nó làm cho chúng ta mất sự an bình của tâm thức và mất sự tự kiểm soát.
Chúng ta có thể nói rằng khi chúng ta mất sự an bình của tâm thức: tim chúng ta đập hơi nhanh hơn; và chúng ta cảm thấy hơi khó chịu. Vì thế, chúng ta cố gắng chú ý, thí dụ, những việc vi tế, như có phải tôi đang nói điều gì đấy do tự hào? Thí dụ, ai đấy nói, “Tôi không hiểu điều đó,” và bạn nói, “Ô, nhưng tôi hiểu!” Quý vị sẽ chú ý một sự hơi bực bội, một chút tự hào, một sự kiêu hãnh nào đấy, và vì thế đây là những gì chúng ta đề phòng.

HỎI: Tôi có hơi không hiểu. Tôi nghĩ, giáo sư đề cập rằng có hai cảm xúc không ngừng đây là hạnh phúcbất hạnh, những sự giao động lên xuống này. Có phải giáo sư đang nói rằng một trong hai điều này la tham dục, còn thứ kia là gì?

ĐÁP: Những gì tôi đang giải thích là hai nhân tố mà chúng khởi động những khuynh hướng nghiệp báo – những điều này đến từ những giáo lý mười hai nhân duyên. Một thứ là tham dục (ái - thứ 8) và thứ kia – tôi đang làm cho đơn giản – thứ kia đặc biệt gọi là thái độ hay cảm xúc đạt được tức là chấp trước (thủ - thứ 9), và nó là một danh sách khoảng năm khả năng khác nhau. Đây là những gì sẽ đạt đến một kết quả, và vì thế điều nổi bật nhất là xác định rõ một cái “tôi” vững chắc với nó chúng ta đang trải qua, với những gì đang diễn tiến.

HỎI: Có phải sự xác định cái “tôi” vững chắc trong mối quan hệ đến điều gì đấy? Rõ ràng có sự rối rắm ở đây, và rằng chúng ta phải chăm sóc nó và thoát khỏi sự rối rắm mù mờ. Nhưng điều gì chúng ta thật sự đang mù mờ và điều chúng ta đang rối rắm với nó?

ĐÁP:  Đấy không phải là một câu hỏi dễ dàng để trả lời trong một cách đơn giảnChúng ta đang mê mờ cái “tôi” thật sự tồn tại, cái “tôi” quy ước, với cái “tôi” sai lầm không thật sự hiện hữu. Nhưng gì chúng ta đang làm là đang tưởng tượng cái “tôi” hiện nay, là thật sự tồn tại hiện hữu trong một cách không thể xãy ra được nào đấy, nó sự thổi phồng. Nó đang thêm vào điều gì đấy không có ở đó. Thí dụ: tôi vui vẻ hay tôi không vui vẻ. Không phải là bạn không vui vẻ; tôi không vui vẻ. Khi có một kinh nghiệm hạnh phúc hay bất hạnh, chúng ta liên hệ nó trong những dạng thức của tôi hạnh phúc. Không phải rằng bạn vui vẻ và ai đấy khác vui vẻ - tôi vui vẻ. Cái “tôi” (‘I’ hay ‘me’) là cái “tôi” quy ước, là điều thật sự hiện hữu.

Hãy để chúng tôi dùng một thí dụ cho cái “tôi” quy ước này. Giả sử chúng ta xem một bộ phim và hãy nói bộ phim là “Cuốn Theo Chiều Gió”. Trong ấy, có một cảnh vui, rồi một cảnh không vui, và rồi một cảnh vui khác. À…,điều gì đang xãy ra ở đây? Màn hạnh phúc là một cảnh trong phim “Cuốn Theo Chiều Gió” và mà không vui là một cảnh khác của bộ phim. “Cuốn Theo Chiều Gió” là chúng ta đã đặt tên một cách quy ước cho toàn thể các màn ấy, tất cả các cảnh ấy, cả vui vẻ hạnh phúc và buồn đau bất hạnh. “Cuốn Theo Chiều Gió”, tuy thế, chỉ là tiêu đề, chỉ là một cái tên. Nhưng khi chúng ta nói về “Cuốn Theo Chiều Gió”, chúng ta không chỉ nói về tựa đề. Chúng ta đang nói về bộ phim thật sự - mà tựa đề liên hệ đến. Đấylà bộ phim hiện hữu một cách quy ước: nó tồn tại. Bộ phim là điều gì đấy tách biệt khỏi mỗi màn của những cảnh ấy – một bộ phim tách rời và độc lập với những cảnh ấy sẽ là một bộ phim không thật. Nó không tồn tại. Một bộ phim tồn tại một cách quy ước đơn thuần là những gì có thể đặt tên hay quy cho, chúng ta nói, trên căn bản của những màn, những cảnh.

Tương tự thế, chúng ta có những thời khắc hạnh phúc trong đời sống, chúng ta có những lúc không vui trong cuộc đời và v.v…, và chúng ta liên hệ như thế nào đến tất cả những điều ấy? Chúng ta liên hệ tới nó như cái “tôi” – cái “tôi” quy ước, là điều thật sự hiện hữu: nó không phải là bạn, nó là “tôi”. Tương tự thế, bộ phim là “Cuốn Theo Chiều Gió”, không phải là “Chiến Tranh Các Vì Sao”. Nhưng không có cái “tôi” tách biệt từ những thời khắc của kinh nghiệm hạnh phúcbất hạnh và cái “tôi” là điều đang kinh nghiệm những thời khắc ấy. Đó sẽ là cái “tôi” không thật, một cái “tôi” không thật sự tồn tại. Và cái “tôi” không chỉ là một từ ngữ; vì thế cái “tôi” chỉ đơn thuần là những gì mà từ ngữ ấy đang liên hệ đến trên căn bản của tất cả những thời khắc trãi qua của một đời sống.

Sự mù mờ, thế thì, sẽ là để nghĩ rằng có một cái “tôi” riêng biệt nào đấy hiện diện trong thân thể này, cư ngụ trong đấy, nối kết với nó bằng cách nào đấy, nhấn những nút bấm, và bây giờ cái “tôi” ấy là đang trải qua cái đau trên bàn chân của tôi, và tôi rất đau khổ và tôi không thích điều ấy. Nó giống như có một cái “tôi” tách biệt với toàn bộ những kinh nghiệm bên trong cái vật xa lạ ấy được gọi là thân thể. Sau đó, trên căn bản sự mê mờ rối rắm về cái “tôi” riêng biệt – cái “tôi” không thật này – với cái “tôi” quy ước và đồng hóa nó với cái “tôi” không thật, chúng ta cảm nhận, với tham dục (ái), “tôi pahir tách biệt khỏi sự buồn phiền này, từ sự đớn đau này, từ sự bất hạnh mà tôi trãi qua với cái đau của thân thể vật lý.” Dĩ nhiên, khi chúng ta không có nhận thức sai lầm ấy về cái “tôi” vững chắc, điều ấy không có nghĩa là rằng chúng ta chỉ ngồi đấy và tiếp tục có cái đớn đau. Nếu bàn chân chúng ta ở trên ngọn lửa, dĩ nhiên, chúng ta đưa bàn chân chúng ta ra khỏi lửa, nhưng khái niệm cái “tôi” ở phía sau là hoàn toàn khác biệt. Không có gì sợ hãi.

Nhưng khái niệm của một cái “tôi” không thật đối kháng với một cái “tôi” quy ước là rất phức tạpcấp tiến cao độ. Vì thế, hãy rời nó bây giờ. Hãy chấm dứt ở đây, thay vào đấy, cho buổi tối hôm nay với một lời hồi hướngChúng ta quán niệm: bất cứ điều hiểu biết nào, bất cứ năng lực tích cực nào đã đến từ điều này, nguyện cầu tất cả được thâm nhập càng sâu sắc hơn hơn nữa, phát triển càng mạnh mẽ hơn hơn nữa, và hành động như nguyên nhân để đạt đến giác ngộ vì lợi ích cho tất cả.

Introductory Lecture on Karma
Alexander Berzin 
Xalapa, Mexico, May 2, 2006
Tuệ Uyển chuyển ngữ
21-03-2010
http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level2_



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12541)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10458)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12402)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11700)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28869)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12093)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13065)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11501)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12431)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17512)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53168)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35559)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21522)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10729)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19339)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12469)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26138)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13388)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14441)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16118)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13770)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16906)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17667)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13211)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12568)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11665)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11667)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14558)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20535)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19104)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19658)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18761)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12246)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12386)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13945)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15128)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15107)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14036)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15573)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11469)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17263)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15041)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20303)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14665)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13921)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11784)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15111)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13045)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22948)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14601)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11720)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13216)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16954)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18402)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11981)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11555)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15915)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12944)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18972)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18515)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant