Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Lời giới thiệu

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9403)
Chương 1: Lời giới thiệu

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

LỜI GIỚI THIỆU

Như tên gọi của nó, Giới Thiệu Đạo Phật của giáo sư Peter Harvey là bức tranh toàn diện về minh triết của Phật giáo. Bức tranh này phác họa bối cảnh xã hội Ấn Độtôn giáo thời đức Phật, qua đó trình bày những nét đặc thù của giáo pháp Phật.

Các học thuyết căn bản của Phật giáo như “Tứ Diệu Đế”, “Nghiệp và tái sinh”, “Thiền định và Trí tuệ” được tác giả phác họa dưới gốc độ vũ trụ luận, nhân sinh quan và đạo đức quan.

Nếu nghiệp được xem là các hành động chủ ý hoặc vô tình thì phản ứng của nó chính là kết quả đối với những cái tốt và hậu quả đối với những cái xấu. Như định luật Vạn vật hấp dẫn, hành vi của con người bao gồm: tư duy, lời nóiviệc làm có lực hút với thiên hướng kết quả tốt hoặc xấu. Tập hợp các chủng loại nghiệp, từ khi có sự sống cho đến lúc qua đời, chính là sự kết nối tái sinh. Nghiệp chính là lực hút của sinh tử. Phân tích mặt tiêu cực của nghiệp là nghệ thuật nhận diện khổ đau và gốc rễ của nó. Khi năng lực nhận diện được nhân lên thành bản lĩnh, thì xiếng xích của nghiệp sẽ được chặt đứt, lúc ấy nguồn năng lực an lạc tĩnh tại ở mức độ cao nhất “Niết Bàn” sẽ có mặt. Để làm được việc đó, con đường không thể thiếu mà các hành giả phải đi qua chính là đạo đức, thiền địnhtrí tuệ.
Lịch sử phát triển của Phật giáo bắt đầu từ lần vận chuyển bánh xe chánh pháp đầu tiên tại vườn Nai. Ba ngôi tâm linh “Phật, Pháp, Tăng” được hình thành. Đời sống đạo đức được thiết lập. Con đường giải thoát rộng mở và đón chào mọi người.

Tác giả đã phác họa lịch sử phát triển của đạo Phật Ấn Độ sau thời Phật nhập diện với đỉnh cao nhất là triều đại “Gupta”. Chủ trương và chính sách truyền bá chánh pháp của đại đế Asoka là bài học về nghệ thuật và kết quả hoằng pháp mà các nhà hoằng pháp hiện đại không thể không tham khảo. Nhờ vào chính sách truyền bá đó, đạo Phật không chỉ là đặc sản tâm linh của Ấn Độ, đã nhanh chóng trở thành ánh sáng của Á châu.

Theo tác giả, truyền thống tâm linh của Bắc tông (thường ngộ nhậnĐại thừa) và truyền thống tâm linh Nam tông (thường ngộ nhậnTiểu thừa) chính là hai con đường tiếp biến văn hóa, một bên là thích ứng để phát triển, một bên là duy trì để phát triển. Duy trìthích ứng là hai phương diện của phát triển trong quá trình tiếp biến văn hoá của đạo Phật, nhờ đó ảnh hưởng của Phật giáo đã tác động tích cực đến các phương diện và ngành nghề trong xã hội nơi đạo Phật có mặt như những thực tại văn hóa tâm linh. Kho tàng văn chương và minh triết Phật giáo đã làm phong phú thêm văn học và triết lý của các quốc gia. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc qua lịch sử đồng hành của Phật giáo đã góp phần giữ vững hồn thiêng sông núi. Kiến trúc nghệ thuật ở các quốc gia có mặt đạo Phật đều ít nhiều chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các giá trị văn hóa của đạo Phật.

Nền triết học Đại thừa với điểm nổi bật của văn học Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Pháp HoaNiết Bàn là cả kho tàng triết lý nhập thế, đáp ứng nhu cầu tri thứctriết học của tầng lớp tinh hoa xã hội. Các trường phái chính của đại thừa như Trung QuánDu Già đã được thảo luận cặn kẻ trong tác phẩm. Nếu triết học “tánh không” như nghệ thuật phá chấp tất cả những gì gọi là cái tôi thường hằng hay đoạn diệt, cá nhân hay xã hội, quốc gia hay liên minh quốc gia, thì học thuyết Như Lai tàng của triết học Du Già chính là nghệ thuật nhận diện tiềm năng giác ngộ trong tình huống của chúng sanh hay người phàm. Nhận diện được thai tạng Như Lai, thì con người có khả năng vượt qua mặc cảm tự ti của người phàm, từ đó tinh tấn đạt được những gì chưa đạt. Trong thành quả mà không bị vướng kẹt, trong thăng hoa mà không bị cái tôi chi phối, hành giả đang đạt được trí tuệtánh không vốn có khả năng tháo dở mọi chấp trước.

Bên cạnh các học thuyết và triết lý của các trường phái Phật giáo, tác giả đã phân tích phương diện sùng báitín ngưỡng vốn chịu ảnh hưởng sâu rộng từ văn hóa bản địa. Các hoạt động văn hóa như tụng kinh, lễ Phật, cúng kiến, thờ phụng hình tượng đã có chiều dày lịch sử từ khi đức Phật qua đời. Các lễ hội văn hóa tín ngưỡng Bồ Tát Quan Âm như đức mẹ từ bi, Phật A Di Đà như bậc đại giácTây phương cứu thế, Phật Dược Sư như thầy thuốc trị bệnh thân tâm v.v… đã được phân tích từ gốc độ tiếp biến văn hóa.

Theo tác giả, căn bản nhất của đời sống tâm linh Phật giáo chính là đạo đức. Đạo đức có nhiều gốc độ: thuận hợp các quy chuẩn luật pháp, rèn luyện tâm ý và nuôi dưỡng động cơ tích cực cho mọi hành động và mục đích vốn được xem là cẩm nang hành xử của người Phật tử. Nếu đạo đức của người tại gia được đặt trên nền tảng thuận Hiến, hợp pháp nhằm xây dựng các hình thái bình đẳng và công bằng xã hội thì đạo đức xuất gia nhấn mạnh đến động cơ thái độ của tâm ý, nhằm chuyển hóa đến tận gốc rễ nỗi khổ niềm đau tiềm ẩn. Hai loại hình đạo đức vừa nêu đều có giá trị xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.

Tinh hoa của triết lý đạo Phật, theo tác giả là sự thực tập thiền định để phát huy trí tuệ. Các phương pháp thiền định truyền thống như bốn lĩnh vực quán niệm, mười sáu hơi thở với trọng tâm chánh niệm và tỉnh thức đã được phân tích dưới gốc độ tâm lý trị liệu. Các phương pháp thiền định phổ biến trong đạo Phật như chỉ và quán và các chi phái thiền phổ biến ở Trung Hoa như Thoại ĐầuCông Án được xem là những phương tiện để tỏ ngộ được chân tâm thường trú, thể tính tịnh minh. Phương pháp thiền truyền thống và phát triển tuy có khác nhưng mục đích trị liệu khổ đau và hướng đến niết bàn thì cả hai thống nhất. Phương pháp hành trì của Tịnh độ tôngquán tưởng của Mật tông nên hiểu như những phương tiện hữu hiệu trong việc chuyển hóa thân tâm. Thiền, Mật và Tịnh là ba trong phương pháp tu tập nhưng là một trong cứu cánh.

Sự tiếp nối truyền thống và những đa dạng hiện tại từ cái nhìn phân tích của tác giả là sự tương dung và bổ sung. Đọc tác phẩm “Giới thiệu đạo Phật”, ngoài tấm bản đồ toàn diện như vừa nêu, người đọc tự mình khám phá những chân lý xâu xa nhưng bình dị, những lời kinh triết lý nhưng gần gũi, những chân lý thâm sâu nhưng dễ hành, vừa là tinh hoa của đạo Phật nhưng cũng là mục đích của đời sống hạnh phúc. Ngôn từ trong bản dịch mặc dù mới và đôi lúc có phần xa lạ với các thuật ngữ Phật học Hán Việt truyền thống, chẳng những không làm chúng ta khó hiểu bản dịch, ngược lại giúp cho người đọc làm quen các khái niệm mới tương đương với các thuật ngữ truyền thống. Trên tinh thần này, tôi trân trọng kính giới thiệu tác phẩm đến quý độc giả.

Giác Ngộ, ngày 13/05/2009

Thích Nhật Từ 
Phó viện trưởng HVPGVN tại TP.HCM

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12619)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14188)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10939)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10608)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11294)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12092)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13242)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13751)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33778)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11417)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 13035)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13154)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11716)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17999)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11526)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11949)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11625)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19080)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12658)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11449)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13238)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15879)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11943)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11790)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12923)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12749)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14055)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13066)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 13039)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13395)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12850)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12772)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11819)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11813)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12430)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12474)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19932)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12066)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12091)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16989)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12759)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15176)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16233)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12972)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12327)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 12011)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 12016)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13248)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16602)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13325)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12606)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11924)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19961)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11259)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11355)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10498)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11174)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11040)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10115)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11827)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant