Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 12: Những bậc thánh thiện của Đại thừa - Con đường của Bồ Tát (Bodhisattva)

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8898)
Chương 12: Những bậc thánh thiện của Đại thừa - Con đường của Bồ Tát (Bodhisattva)

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

Chương 12
 NHỮNG BẬC THÁNH THIỆN

CỦA ĐẠI THỪA (MAHĀYĀNA)

Con đường của Bồ Tát (Bodhisattva)

Trí tuệ, từ biphương tiện thiện xảo

Đại thừa (Mahāyāna) chú trọng đến vị Bồ Tát (Bodhisattva), một người đang đi trên đường đến quả vị Phật hoàn hảo, mà nhiệm vụtừ bi giúp đỡ các chúng sinh trong khi đang phát triển trí tuệ của riêng mình. Với trí tuệ (prajñā) của riêng mình, vị nầy biết rằng không có “chúng sinh” nào, chỉ là những dòng luân lưu của các pháp (dharmas) rỗng không, nhưng với phương tiện thiện xảo giúp vị nầy hòa giải trí tuệ với lòng từ (karuṇā). Điều nầy thôi thúc vị nầy hoạt động để cứu vớt tất cả mọi chúng sinh, vì dù các chúng sinh là những dòng luân lưu rỗng không, nhưng họ vẫn cảm thấy “chính họ” là “những chúng sinh đau khổ” (Vc. sec. 3).

Trí tuệ trong nhiều trường hợp giúp đỡ cho lòng từ bi. Cuối cùng, nhờ vào đây để trở thành một vị Phật toàn trí, có thể giảng dạy và giúp đỡ các chúng sinh trong muôn vàn phương cách. Nó cũng bảo đảm là hành động từ bi thích hợp, có kết quả, và không phải là để tự lợi một cách lén lút. Hơn nữa, nó cũng cố cảm giác đoàn kết với mọi người, bởi sự thấu hiểu sâu sắc về “điểm tương đồng giữa các chúng sinh”: “ta” và “người” đều là rỗng không, không có sự khác biệt cuối cùng nào. 

Vị Bồ Tát (Bodhisattva) có thể thân cận với những kẻ làm sai trái, để “gần gũi” được họ, vì vị Bồ Tát (Bodhisattva) biết rằng những tính xấu nầy không cố hữu. Bất cứ sự kiêu hãnh tiềm tàng nào về những việc tốt đã làm đều bị kềm chế với ý nghĩ là tất cả “những công đức” của vị nầy cũng là rỗng không (Vc. sec. 8).
Từ bi cũng giúp cho trí tuệ cắt bỏ việc cho mình là trọng tâm, bằng cách khuyến khích một đời sống hy sinh cho kẻ khác và làm việc tích cực để giúp đỡ mọi ngườiKinh Hữu Học Kết Tập (Śikṣā-samuccaya) của Śāntideva (thế kỷ thứ bảy) tin rằng vị Bồ Tát cũng có thể làm một việc ác để bị quả báo địa ngục, nếu đây là vấn đề cần thiết để giúp đỡ một người khác và cho vị Bồ Tát cơ hội nhìn rõ mọi mặt của đời sống. Sự uyển chuyển lớn nơi Đại thừa (Mahāyāna) về những phương tiện thiện xảo của giáo điều được duy trì để nó khỏi trở thành một loại giấy phép liên kết với từ bi, thiền định thanh lọc, và niềm tin về nghiệp báo.

Những sự hoàn hảo
và cấp bậc của một vị Bồ Tát (Bodhisattva)

Con đường Bồ Tát (Bodhisattva-path) bắt đầu với sự xuất hiện của Bồ đề tâm (bodhi-citta), nguồn cảm hứng để tranh đấu tiến đến quả vị Phật và để giúp cho các chúng sinh đang đau khổ. Để cho sự kiện trọng yếu nầy xuất hiện, một người phải “xứng đáng” và có hiểu biết, muốn được như vậy cần phải thực tập về tâm linhđạo đức trong hiện tại và trong những đời sống đã qua, cùng với sự thành tâm, sự suy nghĩ về những nỗi khổ của mọi chúng sinh và sự cần thiết thành Phật. Năng lực của Bồ đề tâm (bodhi-citta) một khi xuất hiện có thể tạo nên rất nhiều “công đức” và làm giảm bớt những nghiệp xấu đã gieo trong quá khứ.

Sau sự xuất hiện của Bồ đề tâm (bodhi-citta), một người lập những hạnh nguyện Bồ Tát (praṇidhāna’s) với sự có mặt của những người đã lập hạnh và sống đúng với những lời nguyện đó, hoặc tuyên thệ trước các vị Phật và các vị Bồ Tát như những nhân chứng. Có những lời tuyên thệ chung thông thường: khắc phục vô số trần cấu, đạt quả vị Phật không thể so sánh, và cứu độ các chúng sinh; những người khác thì giúp đỡ các chúng sinh trong những trường hợp đặc biệt. Lời nguyện cứu độ tất cả các chúng sinh được xem là đáng tin, và không tham vọng quá mức, bởi các chúng sinh đều có “Phật tính” (Buddhaness), hoặc “Như lai tạng (Tathāgata-garbha), và không ích kỷ vì biết rằng các chúng sinh cũng không khác chi Bồ Tát.

Tuy nhiên, những lời tuyên thệ như vậy không nên coi thường. Chúng trở nên một sức mạnh tự trị đầy năng lực trong phần tâm thầnđưa tới sự “lầm lỗi” lớn nếu không giữ lời thệ nguyện. Thông thường, cần phải có từ ba cho đến ba mươi ba “hằng hà sa số kiếp” để những lời tuyên thệ nầy có thể thành tựu (xem tr. 33). Con đường Bồ Tát (Bodhisattva-path) thênh thang rộng lớn có lẽ đã được vạch ra từ các tác phẩm văn chương Bát Nhã (Perfection of Wisdom literature) ở buổi ban đầu, nhưng lại là sản phẩm của sự tuyên dương ca ngợi và triết lý kinh viện sau nầy.

Con đường Bồ Tát (Bodhisattva-path) được thực tập bằng cách phát triển một số “hoàn hảo” (pāramitās) và tiến mãi qua mười “cấp bậc” (bhūmis). Sáu “hoàn hảo” được diễn tả trong văn chương Bát Nhã (Perfection of Wisdom literature), dù bốn phần khác được thêm vào sau nầy để phối hợp với bốn “cấp bậc” sau cùng. Những cấp bậc được diễn tả trong các tác phẩm có lẻ là những sáng tác của Asanga, Kinh Bồ Tát địa (Bodhisattva-bhūmi), và kinh Thập địa (Daśa-bhūmika Sūtra). Những tác phẩm nầy nói về vị Bồ Tát Thánh Thiện (Ārya), cũng như Bát Chánh Đạo (Eightfold Path) đưa đến Bát Thánh Đạo (Holy Eightfold Path), và như vậy vị Bồ Tát thực tập những sự hoàn hảo ở mức độ tầm thường trước khi trở thành một vị Thánh Thiện. Sự thay đổi nầy, giống như sự nhập lưu (xem tr.68), xảy ra khi đạt đến “Kiến Đạo”, một mức độ phát triển tâm linh mà sự thấu hiểu sâu sắc nơi thiền định đem lại một kinh nghiệm đầu tiên đầy đủ về sự rỗng không.

Trong giai đoạn đầu, vị Bồ Tát Thánh Thiện tràn đầy niềm vui và niềm tin, và chăm chú vào việc phát triển sự bố thí (dāna) ở mức độ cao nhất. Ở đây việc bố thí là cho hết sức khỏe, lời dạy bảo, mạng sống, chân tay, kể cả vợ và gia đình, vì lợi ích của những người khác. “Công đức” từ những hành động như vậy được hồi hướng cho quả vị Phật tương lai của mình và mọi người. Śantideva khen ngợi sự hồi hướng “công đức” (pariṇāmanā) trong chương cuối của tác phẩm Nhập Bồ đề kinh (Bodhi-caryāvatāra) của ông. Śantideva nguyện là nhờ vào “công đức” viết bài thơ nầy, nhân loạichúng sinh khác có thể được giải thoát khỏi mọi hoạn nạn, và được phú cho đạo đức, niềm tin, trí tuệlòng từ bi. Trong một câu thơ, ông còn nguyện là những đau khổ của thế gian nên chính muồi nơi ông : nghĩa là không phải chỉ cho họ những “công đức” của mình, ông còn nguyện chịu luôn những nghiệp xấu của các kẻ khác. Trong giai đoạn thứ hai, vị Bồ Tát chú tâm vào sự hoàn hảo về đạo đức (sīla), cho đến khi hạnh kiểm của vị nầy trở nên trong sạch một cách tự nhiên. Ông cũng khuyến khích những người khác tránh sự vô đạo đức, vì nó đưa đến những nơi tái sinh không may mắn. Sự phát triển về thiền định của ông giúp ông thấy được các cõi trời và kính ngưỡng vô số các vị Phật. 

Trong giai đoạn thứ ba, vị Bồ Tát chú tâm vào việc hoàn hảo sự nhẫn nhục (kṣānti), được cũng cố bằng sự thực tập lòng tử tế và từ bi. Vị Bồ Tát phát triển khả năng chịu đựng rất lớn trong mọi nghịch cảnh, tránh sự nổi giận, và kiên nhẫn kiên trì trong việc tìm hiểu Pháp (Dharma) sâu thẳm. Trong giai đoạn thứ tư, sự hoàn hảo về tinh tấn (vīrya) được phát triển, nhờ vào sự tăng trưởng của nguyện vọng và lòng từ bi. Sự quan tâm cảnh giác hay chánh niệm (mindful alertness) được củng cố, và ở giai đoạn đặc biệt nầy thật là thích hợp để mà thực tập kỷ luật như các vị nam nữ tu sĩ

Trong giai đoạn thứ năm, sự chú tâm vào việc hoàn hảo thiền định (dhyāna). Những trạng thái nhập định được quán triệt, nhưng sự tái sinh nơi cõi trời không được chấp nhận. Trong Tứ Diệu Đế (Four Holy Truths) một khi hiểu rõ và có khả năng, thì việc chuyển đổi từ tục đế đến chân đế được phát triển. Những khả năng trong phạm vi toán học, y học, và thơ văn được trau dồi, như những phương tiện để giúp đỡ những người khác và để giảng dạy giáo pháp (Dharma). Trong giai đoạn thứ sáu, trí tuệ được hoàn hảo. Vị Bồ Tát (Bodhisattva) có được sự hiểu biết sâu sắc hoàn toàn về Lý duyên khởi (Conditioned Arising), vô ngã và không, và như vậy đạt đến một trình độ phát triển song song với vị A-la-hán (Arahat). Lúc sắp chết, vị nầy có thể rời vòng tròn tái sinh để vào Niết Bàn (Nirvāṇa), nhưng vì “lòng đại từ bi” của Đại thừa (Mahāyāna) không cho phép vị nầy làm như vậy. Bởi vì trí tuệ hoàn hảo và năm giai đoạn trước đó nhấn mạnh về sự hoàn hảo để trở nên siêu việt, đạt đến sự tràn đầy những hoàn hảo. Những hành động khó nhất được thực hiện mà không có chút gì ý thức về tự ngã hoặc hành động có mưu đồ. Thí dụ, khi cho vị nầy không thấy “người cho”, “món quà”, “người nhận” hoặc “kết quả”; bởi vì tất cả đều tan vào trong sự rỗng không ( Bản văn, 131).

Trong giai đoạn thứ bảy, vị Bồ Tát (Bodhisattva) đi xa hơn việc tái sinh tùy vào nghiệp lực, và trở thành một “Chúng sinh Vĩ đại” (Mahā-sattva), một chúng sinh cõi trời hay cứu vớt bằng những phương tiện thiện xảo từ nơi sự hoàn hảo của chính mình, vị nầy với thần thông, phóng ra hình ảnh của mình trong vô số thế giới để dạy dỗ và giúp đỡ các chúng sinh một cách thích hợp. Vì biết rằng luân hồi (saṃsāra) không khác chi Niết Bàn (Nirvāṇa), vị nầy đạt đến “vô trụ Niết Bàn” (xem tr. 113). Trong giai đoạn thứ tám, vị nầy đạt đến mức độ không thối chuyển, tức là lúc nầy vị nầy chắc chắn là mình sẽ đạt quả vị Phật. Sự hiểu biết của vị nầy có khả năng làm cho vị ấy xuất hiện bất cứ ở nơi nào trong vũ trụ mà vị ấy muốn, để dạy dỗ các chúng sinh với hình dạng giống họ. Vị nầy quán triệt đầy đủ sự hồi hướng “công đức” từ kho chứa rộng lớn của mình, như vậy các chúng sinh khi cầu nguyện vị nầy sẽ nhận được công đức như là một nâng đỡ tâm linh miễn phí. Trong giai đoạn thứ chín, vị Bồ Tát hoàn hảo sức mạnh (bala) của mình, dùng sự thấu hiểu sâu sắc rộng lớn của mình để hiểu về cá tính của chúng sinh và giúp đỡ, dạy dỗ họ với những phương thức chính xácthích hợp.

Trong giai đoạn thứ mười, vị Bồ Tát sống ở cung trời Tuṣita nơi Bồ Tát Maitreya đang cư ngụ (xem tr. 15). Vị nầy có được một thân thể rạng rỡ và được bao quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm các vị Bồ Tát nhỏ hơn. Sự chú tâm trong thiền định về sự toàn giác giống như viên Kim Cương, vị nầy có được sự hiểu biết hoàn hảo (jñāna). Các vị Phật sau đó đến để thọ ký cho vị nầy quả vị Phật hoàn hảo mà vị nầy sẽ đạt được trong giai đoạn Như lai (Tathāgata) sắp tới.
Việc đạt được quả vị Phật không xảy ra ở thế gian nầy, nhưng xảy ra nơi cung trời Akaniṣṭha, một cõi trời trong sạchthanh tịnh nhất (Lanka. 361). Nơi Phật giáo ở buổi ban đầu, cõi nầy được xem là cõi cao nhất trong năm cõi trời “thanh tịnh”, nơi mà chỉ có những vị không trở lại (Non-returners) được tái sinh ở đây và đạt kinh nghiệm Niết Bàn sau đó (xem tr.72). Mạng sống của các vị trời “cao tuổi nhất” (Pali Akaniṭṭha) là 16.000 kiếp. 

Trong Đại thừa (Mahāyāna), nơi nầy là nơi mà một vị Bồ Tát đạt Niết Bàn cuối cùng, quả vị Phật. Trong vài trường hợp, theo những bài giảng trước đó, những Vị Đại Bồ Tát (Great Beings) được xem là giống như những vị không trở lại, vì sự thấu hiểu sâu sắc của các vị không trở lại thường được xem là gần với sự hiểu biết sâu sắc của các vị A-la-hán (Arahats), nhưng họ vẫn tiếp tục tái sinh ở các cõi trời trước khi đạt được Niết BànTuy nhiên, Đại thừa (Mahāyāna) nhấn mạnh rằng các vị Đại Bồ Tát và các vị Phật có được trí tuệ rộng lớn hơn vị A-la-hán hoặc các vị thánh ở cấp bậc thấp hơn.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12619)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14187)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10939)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10608)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11294)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12092)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13242)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13750)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33777)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11417)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 13035)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13153)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11716)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17998)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11525)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11949)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11624)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19080)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12658)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11449)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13238)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15879)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11943)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11790)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12923)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12749)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14055)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13066)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 13039)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13395)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12850)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12772)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11819)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11813)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12430)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12474)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19932)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12066)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12091)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16988)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12758)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15176)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16233)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12972)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12327)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 12011)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 12016)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13248)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16602)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13325)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12606)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11924)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19961)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11259)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11355)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10498)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11174)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11040)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10115)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11827)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant