Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Những phát triển ban đầu của Phật giáo

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8703)
Chương 7: Những phát triển ban đầu của Phật giáo

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

Chương 7
NHỮNG PHÁT TRIỂN

BAN ĐẦU CỦA PHẬT GIÁO

Tăng đoàn buổi ban đầu

Chữ Tăng đoàn (Sangha) nguồn gốc xuất phát từ nhóm Sa-môn (Samanas) với ý nghĩa là một nhóm tu sĩ nam và nữ cùng với Đức Phật là vị Thầy lãnh đạo
Những vị nầy an cư trong ba tháng của mùa mưa, và mùa an cư (Vassa) đối với các vị sa-môn Phật giáothời gian để thực tập nhiều về giáo pháp, và cũng trong thời gian nầy họ có cơ hội tiếp xúc với dân chúng. Họ thường hay trở về những nơi như công viên được cúng dường bởi những cư sĩ Phật tử giàu có, và chính những nơi nầy trở nên nền tảng cho cuộc sống chung của Tăng đoàn. Như vậy, người Phật tử đã phát minh ra cuộc sống tu viện, một Trung Đạo giữa cuộc sống của những người thoát tục Jain và của những người cư sĩ Bà-la-môn.

Sức mạnh của Tăng đoàn được thể hiện qua bao thời gian, mà không một hội đoàn nào của con ngườithể hiện hữu với thời gian lâu như vậy, và được truyền bá, lan rộng như cộng đồng Tăng đoàn của Phật giáo. Đức Phật chủ trương những buổi hợp thường xuyên ở mỗi nơi có Tăng chúng với mục đích hóa giải và đồng ý với những việc xảy ra trong Tăng đoàn (D.II.76-7). Nếu cần thiết, cũng có những cuộc bỏ phiếu mà đa số thắng thiểu số (Vin.II.84).

Sau khi Đức Phật nhập diệt (vào khoảng 400 trước Thiên Chúa). Một “cuộc hội thảo giữa Tăng chúng” gồm các vị A-la-hán được tổ chức ở Rājagaha (Vin.II.284-7) để tham khảođồng ý về những nội dung của Giáo Lý (Dhamma) và Luật (Vinaya) do Đức Phật truyền lại. 

Ānanda, vị thị giả trung thành của Đức Phật đã đọc lại những bài kinh (Suttas), được bắt đầu như sau: “Tôi nghe như vầy… ”. Vị tu sĩ Upāli đọc những bộ luật (Vinaya). Có một kết luận là những kinh và luật hiện giờ dù được rao truyền lại cũng có thể đã bị phóng đại.

Có thể là bảy mươi năm sau cuộc “hội thảo của Tăng Đoàn”, một cuộc hội thảo thứ hai được tổ chức tại Vesāli (Vin.II.294-307), lần nầy là để lọc bỏ những vị tu sĩđức hạnh kiếm khuyết, không hội đủ mười điểm được nêu ra vì họ đã nhận tiền bạc. Nếu những điểm nầy chưa có trong Luật (Vinaya) buổi ban đầu, thì bây giờ là một trong những điều cấm kỵ . Mười sáu năm sau đó hoặc xa hơn có thể đã có một cuộc hội thảo khác ở Pāṭaliputta, và phái ly giáo đầu tiên tách rời Tăng Đoàn và có những phái ly giáo khác tiếp theo sau đó. Lý do là vì có sự bất đồng ý kiến về điều luật trong tăng chúng, dù những điểm trong bộ luật (Vinaya) có vẻ như chia rẽ tình anh em trong Tăng Đoàn, nhưng thật ra là vì sự phát triển địa lý của mỗi địa phương khác nhau và vì đó những cộng đồng bị phân tán chứ không phải thật sự vì sự bất đồng ý kiến. Sự bàn luận về những điều trong giáo lý cũng đã đưa đến sự phát triển nhiều trường phái với những ngôn luận (Vāda’s) bất đồng.

Nguồn gốc của sự chia rẽ không nhất thiết là vì các phái ly giáo, có ý kiến là một vị tu sĩ có thể bị lên án vì kết luận rằng không có gì sai trái với những ham muốn dục lạc (Vin.IV.134-5). Trước đó, cho thấy rằng những hội viên của một trường phái đặc biệt nào đó có thể chung sống trong những cộng đồng tăng chúng khác, nhưng có lẽ vào khoảng thế kỷ thứ hai trước Thiên Chúa, cộng đồng tu sĩ bắt đầu được biết đến bởi những giải thích đặc biệt về giáo điều. Vào khoảng ít nhất năm 100 trước Công nguyên, những phái ly giáo đã có những điểm bất đồng và sự phân biệt dần phai nhạt giữa “hội đoàn huynh đệ” và “trường phái”. Trong khi những hội viên của những “hội đoàn huynh đệ” khác nhau không thể chính thức tham gia việc trong Tăng đoàn, họ vẫn ở cùng một tu viện, và học hỏi lẫn nhau về giáo lý. Những vị cư sĩ thời đó có lẽ không mấy quan tâm đến những khác biệt giữa các trường phái.

Lý lẽ của phái ly giáo thứ nhất không được chấp nhận. Theo truyền thống Phật giáo Nam tông cho rằng phái nầy tách rời Tăng đoàn vì họ đã bị thua trong cuộc hội thảo ở Vesāli – không thể là nguyên do vì phải thực hành mười điều được nêu ra cho tăng sĩ, nhưng cả hai “hội đoàn huynh đệ” đều lên án phái ly giáo.
Những truyền thống khác cho rằng nguyên do là vì những giáo điều, vì năm điểm được đề ra bởi vị tu sĩ Mahādeva. Nhưng cuộc bất đồng ý kiến nầy có lẽ xảy ra sau đó, và được nhắc đến như là một lý do cho việc tách rời ở phái thứ nhất. Một số học giả sau nầy cho rằng lý do chính đáng có lẽ là vì họ muốn làm ra thêm những điều luật trong tăng chúng

Vì muốn có sự đồng nhất và trang nghiêm trong đoàn thể mà một phần Tăng đoàn đã thêm vào một số luật lệ trong bộ Luật (Vinaya) về hạnh kiểm, trang phục, và đức hạnh của một tu sĩ nơi công cộng. Đây có lẽ là luật lệ phải “tuân theo”, những luật lệ được “tuân hành” cho dù không được ghi trong sách, để dễ huấn luyện những người mới gia nhập vào Tăng đoàn

Những người cải cách dựa nhiều vào truyền thống Miền Tây Ấn, nơi mà Phật giáo đã lan rộng, và vì vậy những luật lệ rất quan trọng đối với họ. Những người cải cách không thắng nổi số đông bảo thủ, vì thế họ đã bất đồng ý kiến và đây là phái ly giáo đầu tiên. Những người cải cách gọi nhau là Thượng Tọa Bộ (Sthavira-vāda), hội đoàn huynh đệ “Giáo pháp xưa/ giáo pháp căn bản). Số đông gọi nhau là Đại Chúng Bộ (Mahāsānghika), hoặc “thuộc về Tăng đoàn hoàn cầu”.

Hoàng Đế Asoka và Phật giáo 

Trong triều đại Hoàng đế Asoka (vào khoảng 268-238 trước Thiên Chúa), Phật giáo lan rộng và bành trướng ở miền nam Ấn Độxa hơn trở thành “Tôn giáo hoàn cầu”. Hoàng đế Asoka thừa hưởng triều đại Magadha và cai trị phần lớn lục địa nhỏ Ấn Độ hiện đại cho đến khi người Anh xâm lăng, trừ miền nam xa tít. Vua Asoka tiếp nhận phần đạo đức về mặt xã hội từ nơi Phật giáo như một kim chỉ nam và vua Asoka được xem là vị vua Phật tử đầy lòng bi mẫn, đáng làm gương cho mọi người. Chúng ta biết rõ về vua Asoka nhờ vào những tài liệudi tích lịch sử được tìm thấy, như cột và bia đá được phổ biến với nhiều ngôn ngữ khác nhau.

Đức Phật dường như rất thích chế độ phân nửa dân chủ cộng hòa trong thời đó, nhưng Đức Phật cũng biết đến quyền lực đang lên của các đất nước. Lý tưởng của Đức Phật về một vị hoàng đế bắt đầu từ (i) một vị vua được dân bầu lên để giữ trật tự trong xã hội (tr.37), và (ii) ý kiến của Đức Phật về lòng từ bi của một vị Chuyển Luân Thánh Vương (Cakkhavatti) trong quá khứ, những vị vua quan tâm rất nhiều đến Pháp (Dhamma), với ý nghĩa đạo đứclẽ phải xã hội (thí dụ D.III.58-9). Khi mới làm vua, hoàng đế Asoka rất thích đi chinh phục các nước khác, với chủ trương “mạnh là đúng”. Khi hoàng đế Asoka trở thành Phật tử vào khoảng năm 260 trước Thiên Chúa, sự hiểu biết về niềm tin Phật giáo không tác dụng mấy cho đến khi vua Asoka chinh phục xứ Kalinga trong năm kế tiếp. Sau cuộc chinh phạt lần đó, hoàng đế Asoka rất hối hận về các cuộc chiến do chính mình gây ra, và tỏ lòng muốn lãnh đạo, làm vui lòngbảo vệ dân chúng theo giáo pháp (Dhamma). Đức vua cảm thấy rằng ông nên cải tiến phẩm chất nếp sống của người dân, và để thành lập một khuôn mẫu thích hợp cho người dân để họ sống một đời sống đạo đức, người Phật tử cũng như người các tôn giáo khác. Vua cho thi hành những công việc như đào giếng, dựng nhà nghỉ bên đường cho du khách, giúp đỡ thuốc men cho người và vật, và còn giúp luôn những vùng xa hơn vương quốc của ngài. Những vị quan hiểu biết về giáo pháp được cử đi khuyến khích việc làm lành, lo lắng cho người già và trẻ em mồ côi, bảo đảm những luật lệ căn bản trong nước. Dù hoàng đế Asoka giữ những hình phạt như đánh đòn, vua đã hủy bỏ việc tra tấnán tử hình. Tù nhân thả ra được giúp đỡ tiền bạc và được khuyến khích làm “lành” cho cuộc sống ở tương lai.
Hoàng đế Asoka lo lắng về phương diện đạo đức của dân chúng và trong pháp chế đã nói lên điều nầy, nhưng thường thì khuyên nhủ dân chúng hãy sống một đời sống tốt đẹp hơn. Việc đầu tiên được đề cao là không sát hại (ahimsa), hoặc “không gây tổn thương”: điều được xem là quan trọng nhất trong Phật giáo cũng như trong những truyền thống Ấn Độ.

Mặc dù hoàng đế Asoka vẫn còn giữ quân đội, nhưng chỉ để phòng ngừa sự xâm lăng, vua Asoka đã ngừng chinh chiến, những cuộc săn bắn, thú vui thể thao của các vị vua, được thay thế bằng những cuộc hành hương đến những di tíchliên hệ tới Đức Phật. Và không bao lâu trong hoàng cung rộng lớn, mọi người hoàn toàn đều ăn rau quả. Nơi kinh thành, việc tế lễ súc vật của Bà-la-môn giáo bị cấm tuyệt, và với đại đa số không ăn thịt thú vật, chim và cá được bảo vệ. Vua Asoka khuyến khích sự rộng lượng đối với các vị sa-môn (Samanas), tu sĩ Bà-la-môn và những người già. 

Lễ phép, kính trọng các vị nầy và cha mẹ, đức hạnh tốt đối với bạn bè và người thân thuộc, tử tế với người làm công trong nhà thì được khen ngợi. Lòng thương hại, sự thành thật, trong sạch, dịu dàng, và hài hòa là những đức tính được khuyến khích. Những người cư sĩ dưới triều đại vua Asoka rất là đức hạnh, kết quả là một xã hội thanh bình, an lạc được nhắc đến trên bia đá, và mục đích của người dân thời đó là một cuộc sống đạo đức tốt tuân theo giáo pháp, sẽ đưa đến sự tái sinh nơi cõi trời, và không nhắc gì đến Niết Bàn

Vua Asoka dành cho Phật giáo một vị trí quan trọng dưới triều đại của ngài, cũng như dưới triều đại La Mã, vua Constantine ưu tiên cho Thiên Chúa giáo. Nhưng vua Asoka, không phải chỉ ủng hộ nam và nữ tu sĩ Phật giáo, vua cũng nâng đỡ các tu sĩ Bà-la-môn, những du sĩ Jain, và những vị sư khổ hạnh Ājīvaka, sau nầy các vị vua Phật tửẤn Độ giáo đều thực hành theo khuôn mẫu nầy.

Vào lúc mà những tôn giáo khác nhau đang tranh dành để có thêm tín đồ, đức vua khuyến khích sự khoan dungkính trọng lẫn nhau. Đức vua thấy rằng tất cả truyền thống tôn giáo đều ít nhiều giúp cho phần tâm linh được phát triển, và mười hai cột đá do vua dựng lên đã nói đến một căn bản chung cho các tôn giáo, là không nên khen tôn giáo của mình mà chỉ trích đến tôn giáo khác: vì tranh cãi dữ dội về tôn giáo chỉ đưa đến tai hại cho cả hai bên, trong khi sự kính trọng lẫn nhau làm cho hai bên đều lợi lạc. Cho dù cả hai trường phái Phật giáo Nam tông (Theravāda) và Nhất thiết Hữu bộ (Sarvāstivāda) đều lên tiếng là có sự hỗ trợ đặc biệt của họ với vua Asoka, đức vua có lẽ không thiên vị một trường Phật giáo nào, và vua đã bác bỏ việc chia bè phái. Ngược lại, vua rất thích Tăng đoàn của buổi ban đầu, và có lẽ vua cũng có tham dự sự thanh lọc các tu sĩ giải đãi

Trong cuộc hành hương đến những Phật tích, vua Asoka đã xây lên những ngôi đền và cột đá kỷ niệm. Theo sách sau nầy kể lại, vua cho dựng lên mười cái tháp (Stūpas) và phân phát xá lợi cho những tháp mới toàn cõi Ấn Độ, như vậy giúp cho sự sùng bái tháp được lan rộng trong quần chúng. Dưới triều đại của vua Asoka, những hoạt động truyền bá Phật Pháp thật là nhiều vô kể
Truyền thống Phật giáo Nam tông ghi lại là có vị tu sĩ Tissa Maggaliputta gửi nhiều nhóm tu sĩ truyền bá Phật Pháp đến những nơi “biên giới”. Bia đá cũng kể rõ là vua Asoka gửi sứ giả đi đến những nước xa lạ; vì nhà vua muốn truyền bá những lý tưởng mà vua đang thực hành: một “cuộc xâm lăng bằng giáo pháp” hơn là bằng quân sự. Miền Tây Bắc, sứ giả được gửi sang dến tận Syria, Ai Cập và Macedonia, dù không có sử liệu nào nói rằng họ đã đến những nơi nầy. Về phía đông, sứ giả đến “Suvaṇṇa-bhūmi”, có lẽ là một nước Mon thuộc về phía dưới Miến Điện hoặc trung tâm của Thái Lan. Miền Nam, sứ giả đến những vương quốc Nam Ấn và cả đảo Ceylon ( mà giờ là nước Tích Lan). Sự liên hệ giữa các sứ mệnh và sứ giả không được rõ ràng, nhưng các tu sĩ đi theo các sứ giả và trong trường hợp của Tích Lan, liên hệ nầy rất là rõ rệt và có kết quả.
Nơi đây vào khoảng 250 trước Thiên Chúa, con trai của vua Asoka là một vị A-la-hán Mahinda đã dẫn đầu phái đoàn và sứ mệnh nầy đã hoàn toàn thành công với sự có mặt của Phật giáo Nam tông tại Tích Lan.

Sự sùng báichủ nghĩa tượng trưng trong Phật giáo buổi ban đầu

Sự phối hợp của Phật giáo dưới triều vua Asoka đã làm cho Phật giáo trở thành một tôn giáo của dân chúng, có lẽ trước cả khi sự sùng bái tháp được lan truyền. Nơi gốc cây mà Đức Phật ngồi nhập địnhgiác ngộ là điểm sùng bái chánh, và sau đó những cây khác được chiết cành và nuôi dưỡng. Những cây nầy trở thành “Bồ đề” (Bodhi) hoặc cây “Giác Ngộ” (Englightenment), và được lễ kính như nhắc nhở về sự giác ngộ của Đức Phật cũng như những thần thông diệu dụng của Đức Phật

Trước Phật giáo đã có sự sùng bái cây, bằng cách đem lễ vật và hoa để nơi bàn thờ gốc cây, bằng cách cột những lá cờ chung quanh cây và tưới nước. Đi nhiễu vòng quanh cây cũng được thực hành, hành động biểu thị những gì xảy ra một cách lý tưởng chung quanh đời sống của một người.

Tháp của Phật giáo được thành hình có lẽ bắt nguồn từ thời gian trước Phật giáo, lúc mà những ngọn đồi nhỏ được thành lập lúc chôn các vị vua chúa, anh hùng và các vị thánh mà chúng ta có thể tìm thấy trong những nền văn hóa cổ xưa khác. Những ngọn tháp trở nên quan trọng trong Phật giáo vì chúng chứa dựng những xá lợi, tượng trưng cho Đức Phật và sự nhập Niết Bàn (parinibbāna), và trong vài trường hợp những xá lợi được tôn thờ ở những địa điểm quan trọng. Những xá lợi được để trong tháp (stūpas) là của Đức Phật Gotama, các vị A-la-hán, và luôn cả những xá lợi của những vị Phật quá khứ. Vì xá lợi được tìm thấy nơi thân thể của một bậc giác ngộ, cho nên xá lợi được xem là có năng lực tốt lành và đem lại phước lành cho những ai sùng kính lễ bái gần đó. Khi mà không tìm thấy những xá lợi sau khi hỏa táng, thì tóc hay vật sở hữu, hoặc những bài văn Phật giáo liền được sử dụng trong lúc nầy. 

Tháp Phật giáo xưa nhất được bảo vệ gìn giữ như buổi đầu được dựng lên vào thế kỷ thứ I trước Công Nguyên, tìm thấy ở Sāñcī trung tâm Ấn Độ. Tháp được xây trên một tháp khác vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Thiên Chúa, có thể đã được xây, tu bổ và làm đẹp thêm dưới triều vua Asoka. Bốn cánh cổng, hoặc toraṇa, tháp được đặt nơi ngã tư đường như lời Đức Phật chỉ dẫn, có lẽ là để chỉ cho sự cởi mở và tính phổ biến của giáo pháp (Dhamma). Những hình chạm khắc trên các cánh cổng kể lại chuyện trong Kinh Tiền thân Đức Phật Gotama, cùng với những hình ảnh tượng trưng của các vị Phật trong quá khứcuộc đời Đức Phật Gotama trong kiếp sống sau cùng. Vòng tròn Vedikā, hoặc rào chắn phân biệt chỗ dành cho tháp, và thêm hai đường đầu dành để đi nhiễu vòng (prakakṣiṇā-patha’s). Tháp hình mái vòm, được nhắc đến trong các sách vở xưa là Kumbha hoặc “bình”, là nơi chứa đựng nhiều xá lợi nhất. Nó liên hệ đến hình ảnh tượng trưng của Ấn Độ được biết đến như “bình đầy”, tượng trưng như nhắc nhở, một người giác ngộ thì thừa khả năng để nâng cao giáo pháp (Dhamma). 

Trên tháp Sāñcī(Kiến Trí) có cột và những dĩa, tượng trưng cho những lọng che lúc lễ hội. Những lọng che được dùng như một dấu hiệu của hoàng tộc Ấn Độ, những dĩa trên tháp (Stūpa) tượng trưng cho chủ quyền về tâm linh của Đức Phật

Sự liên hệ vua chúa có lẽ bắt nguồn từ truyền thống xưa khi các vị vua ngồi dưới một cây thiêng liêng giữa cộng đồng để mà phân xử, sau nầy được thay thế bằng lọng che. Những lọng che trên tháp dường như cũng tượng trưng cho cây giác ngộ nơi người Phật tử. Điều nầy được gợi ý bởi một hình chạm trổ các cây với lá như những lọng che, vào thế kỷ thứ hai trước Thiên Chúa. Kiến trúc ở dưới cột và dĩa được tìm thấy trên những tháp khác, và hình dáng giống như cây Bồ đề.

Những tháp sau nầy phần trên cùng hợp nhất lại thành chóp nhọn và những nền thường được dựng thêm dưới những mái vòm để nâng tháp lên như là sự ngưỡng mộ. Mỗi một nền được tượng trưng cho một phần phẩm chất về tâm linh, chẳng hạn như “bốn sự tinh tấn” (xem tr. 69ff.) với chóp nhọn tượng trưng cho thần thông và sự hiểu biết của Đức Phật. Các tháp bây giờ thường được gọi với danh từ là “chùa tháp” (pagoda), có lẽ là một từ sửa đổi sai lạc từ chữ Dagaba (hộp chứa xá lợi), một danh từ được sử dụngTích Lan. Đây là một đặc điểm về sự giới thiệu Đức Phật Gotama, kể cả trước khi Ngài giác ngộ, Đức Phật luôn được mô tả bằng các hình ảnh tượng trưng. Đây có lẽ là cảm nghĩ về bản chất sâu thẳm của một người gần thành hoặc đã thành Phật không thể nào được trình bày đúng dưới dạng một con người. Kể cả Bà-la-môn giáo đương thời cũng chỉ vẽ các vị trời nhỏ bằng những hình ảnhtính cách tượng trưng mà thôi. Trong hình 2, Đức Phật được thấy bằng những dấu chân và trên ngai với hình một bánh xe pháp chạm trổ xinh đẹp (xem tr.23). Khoảng trống hẹp ở giữa của bức tranh gợi ý đến sự yên tịnh và không dao động của tinh thần Đức Phật, và thực chất của Niết Bàn, được diễn tả như là một khoảng trống không.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33401)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6606)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11369)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30456)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30474)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8031)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12261)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12304)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11661)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12911)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34884)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9887)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52325)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10809)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10577)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10769)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10518)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13128)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16339)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21909)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9678)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7175)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10444)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12838)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12843)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16288)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16592)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13917)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16640)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12179)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13902)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14367)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9262)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11795)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11320)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16397)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14412)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16245)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12733)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12141)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11849)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15722)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11571)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14064)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12054)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12712)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15043)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12001)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13171)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14599)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20784)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13283)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11013)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20766)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14422)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20462)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17711)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14075)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31915)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12070)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant