Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

d. Cứu khổ cho vui

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 11103)
d. Cứu khổ cho vui

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN II 

NGÔN HÀNH 

--- o0o --- 

Chương IV

TAM BẢO

D. CỨU KHỔ – CHO VUI

Các đệ tử! Thường vui tu trì pháp thập thiện với các sanh vật, thường sanh khởi bi tâm, cứu vớt đau khổ; thường sanh khởi từ tâm cho điều vui sướng.

Kinh Bát Nhã

Đem của bố thí làm cho chúng sanh mến, đem pháp bố thí thường được thế gian kính trọng. Thí của được kẻ ngu mến, thí pháp được người trí trọng, thí của phá trừ cái nghèo cùng về của, thí pháp phá trừ cái nghèo cùng về công đức. Hai món thí này ai chẳng kính trọng. Cho của là cho vui hiện tại; cho pháp là cho vui Niết Bàn tương lai. Người có lòng bi hay thương tất cả chúng sanh, mà thương chúng sanh tức là thương mình vậy.

Luận Đại Trượng Phu

Kẻ thuyết pháp cần tu 4 hạnh: 

Học rộng nghe nhiều, năng giữ tất cả ngôn từ chương cú 

Quyết định khéo biết hành tướng sanh diệt của các pháp thế gianxuất thế gian 

Phải được thiền định và trí huệ, tùy thuận các kinh pháp mà không tranh luận 

Chẳng thêm chẳng bớt, cứ đúng như Pháp mà nói 

Luận Thập Trụ Tỳ Bà Ta

Thân tâm mình đã được giáo huấn rồi, lại đem dạy người, thời chẳng khó; nếu muốn dạy người trước phải dạy mình đã.

Kinh Phật Trị Thân

Trước trừ ác mình, sau dạy người trừ; nếu mình chẳng trừ, mà dạy người trừ, đâu có lý vậy. Vậy nên Bồ Tát trước phải tự bố thí, trì giới, tri túc, cần hành, tinh tấn, nhiên hậu mới giáo hóa người.

Kinh Ưu Bà Tắc Giới

Như vị Đại Thuyền Sư thường đem con thuyền vĩ đại, hạ giữa dòng chảy, chẳng đụng bên này, chẳng chạm bên kia, chẳng trụ giữa dòng, cứ thẳng tiến tới, không chút ngừng nghỉ.

Cũng thế, Bồ Tát lấy thuyền Ba la mật, ở trong dòng sanh tử, mà chẳng chán sanh tử, chẳng thủ Niết Bàn, mà cũng chẳng ở giữa dòng, là vì muốn khiến chúng sanh đạt đến bờ bên kia, nên không ngừng tay. Trong khoảng vô lượng kiếp, thường tu tinh tiến giáo hóa chúng sanh.

Kinh Hoa Nghiêm

Nếu có Tỳ kheo vì người thuyết pháp mà tự suy nghĩ: "Ta vì kẻ kia thuyết pháp, khiến họ tin kính ta, sẽ cho ta rất nhiều vật uống ăn, áo mặc, nên ta thuyết pháp", ấy là bất tịnh thuyết pháp. Trái lại Tỳ kheo vì người thuyết pháp, mục đích muốn người nghe chứng giải Phật Pháp, lìa các phiền não, trừ khổ hiện tại. Và có thể khiến kẻ nghe, nghe mình thuyết pháp, như thuyết tu hành, vì khiến người nghe lãnh hội được pháp, được nghĩa, được lợi, và được yên vui. Thuyết pháp như thế gọi là thanh tịnh từ bi thuyết pháp.

Kinh Trường A Hàm

Ngài Phú Lâu Na thưa Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Tôi đã được nhờ Thế Tôn giáo hóa; nay tôi muốn qua bên xứ Du Lô Na phía tây để hóa độ người bên ấy."

Đức Phật hỏi: "Người dân xứ kia tính tình hung ác, dữ tợn, tệ bạo mà hay mắng chửi. Nếu ngươi bị họ làm dữ và mắng chửi, hủy nhục thì ngươi làm sao?"

Thưa: "Nếu đối trước mặt tôi mà họ tệ bạo như thế thì tôi tự nghĩ: họ còn hiền lành và có trí khôn, tuy làm dữ như thế mà chẳng cầm đá đánh đập."

Phật hỏi: "Họ làm thế ngươi còn nhẫn được, chớ phỏng họ dùng đá đánh đập thì ngươi nghĩ sao?"

Thưa: "Nếu họ làm vậy tôi lại nghĩ rằng họ còn chút hiền lành và có trí khôn, nên chẳng dùng dao gậy."

Phật hỏi: "Nếu họ dùng tới dao gậy ngươi làm cách nào?"

Thưa: "Nếu họ làm vậy tôi tự nghĩ họ vẫn còn hiền lành và có trí khôn, tuy là đánh chém, mà chẳng giết chết."

Phật hỏi nữa: "Phỏng như họ giết chết ngươi, bấy giờ ngươi sẽ tính cách nào?"

Ngài Phú Lâu Na lại thưa Đức Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Quả thật họ giết chết tôi, tôi lại nghĩ rằng họ cũng còn hiền lành và có trí khôn với tấm thân hủ bại này, họ làm chút phương tiện khiến cho tôi liền được giải thoát."

Đức Phật khen ngợi: "Hay thay! Phú Lâu Na ngươi đã học được pháp nhẫn nhục; ngươi nay đủ sức qua ở bên xứ Du Lô Na mà giáo hóa nhơn gian. Ngươi nên đi ngay, qua bên ấy ngươi sẽ độ những kẻ chưa được độ, an ẩn những kẻ chưa được an ẩn, và những kẻ chưa được Niết Bàn độ cho họ được Niết Bàn."

Kinh Tạp A Hàm

Sau khi Ta nhập diệt các đệ tử phải truyền nhau mà tu hành pháp lợi mình lợi người, thời pháp thân Như Lai thường còn chẳng mất vậy.

Kinh Di Giáo

Kẻ nói pháp, xem căn cơ của người nghe mà nói, họ nhất tâm nghe hiểu thấu vào trong nghĩa của lời nói, như khát được uống; và thấy kẻ nghe pháp buồn vui hỗn độn mới nên vì nói pháp.

Luận Trí Độ

Bồ Tát biết chỗ sở tác của chúng sanh, biết nhơn duyên, biết tâm hành, và biết ưa thích của chúng mà nói pháp. Với kẻ tham dục nhiều, nên nói pháp bất tịnh; với kẻ giận dữ nhiều, nên nói pháp đại từ; với kẻ ngu si nhiều, nên nói pháp siêng năng, quan sát các pháp; với kẻ ba món độc đều nhiều, nên dạy khiến thành tựu pháp môn trí huệ; với kẻ ưa vui sanh tử, nói pháp ba món khổ; với kẻ đắm chấp các thứ "có" nói pháp "không tịch"; với kẻ lười nhác, nói pháp đại tinh tấn; với kẻ ôm lòng ngạo mạn nói pháp bình đẳng; với kẻ nhiều dua dọc, nói pháp Bồ Tát tâm; với kẻ tâm tánh chất trực mà ưa vắng lặng, nên rộng vì nói các pháp khiến họ thành tựu Đạo quả.

Kinh Hoa Nghiêm

Đức Phật bảo các đệ tử rằng: Cũng như thợ vàng lấy các thứ vàng, tùy ý muốn tạo thành các thứ trang điểm: như chuỗi anh lạc, vòng, thoa, kiềng mão v.v...hình tướng tuy khác nhau nhưng chẳng ngoài vàng mà có.

Đức Như Lai cũng thế, chỉ lấy một Phật Đạo tùy thuận chúng sanh, mà phân biệt nói ra nhiều pháp. Như một thức phân biệt nói có sáu; một sắc phân biệt nói thành sáu; vì muốn giáo hóa chúng sanh nên phải phân biệt vậy.

Kinh Niết Bàn

Tại thành Tỳ Da Ly, có ông cư sĩ tên Duy Ma Cật. Ông giỏi biện tài, có thần thông trí huệ đầy đủ, phương tiện thông suốt, trọn thành đại nguyện.

hiểu rõ tâm xu hướng của chúng sanh, nên có thể phân biệt căn cơ lanh chậm. Ông vì mục đích muốn độ người nên mới dùng phương tiện ăn ở trong thành, giàu có của cải vô lượng, thường giúp các dân nghèo. Ông phụng trì giới cấm mà chẳng hủy phạm; thủ chí nhẫn nhục mà chẳng giận dữ, tinh tiến mà chẳng biếng nhác; nhứt tâm thiền định mà chẳng loạn ý; dùng quyết định trí huệ mà nhiếp phục kẻ vô trí.

Tuy là người tại gia mà tu luật hạnh Sa Môn thanh tịnh. Đọc các kinh sách ngoại Đạo mà lòng chánh tín chẳng sờn; học các sách thế gian mà ưa vui Phật pháp.

Hay dạo đi bốn cửa thành để lợi ích cho chúng sanh. Vào trong giảng đường, giảng dạy Đạo pháp; vào trong học hiệu, dạy dỗ trẻ em; vào trong dâm xá, chỉ rõ tội lỗi dâm dục; vào trong quán rượu, dạy dùng phải lẽ.

Khi tiếp các Trưởng giả, vì nói thắng pháp; tiếp cư sĩ khiến dứt tham đắm; nghinh tiếp vua chúa, giáo hóa nhẫn nhục, tiếp Bà La Môn, khiến trừ ngã mạn; tiếp quan Đại Thần giáo hóa chánh pháp; tiếp các Vương Tử dạy điều trung hiếu; tiếp các nội quan, diễn nói chánh pháp; tiếp xúc với thứ dân dạy nên tu phước lực...làm lợi ích chúng sanh rất nhiều.

Bấy giờ cư sĩ mới thị hiện bằng cách dùng phương tiện đau ốm; thế là quốc vương, đại thần, trưởng giả, cư sĩ...đều đến thăm bệnh. Nhơn đấy cư sĩ rộng vì thuyết Đại pháp cho các kẻ kia.

Bấy giờ Đức Phật hay tin Duy Ma Cật lâm bệnh, mới đòi Xá Lợi Phất đến bảo: "Người qua thăm bệnh cư sĩ?" Xá Lợi Phất thưa: "Tôi không dám đi, vì có một hôm nọ, lúc tôi đang ngồi thuyền định dưới cội đại thọ trong rừng, chợt cư sĩ đến bên tôi thình lình bảo: "Xá Lợi Phất! Hà tất phải ngồi thiền định nơi đây; lẽ phải ngồi thiền định cả Tam giới mà chẳng hiện thân ý; chẳng khởi diệt tận định mà hiện các oai nghi; chẳng bỏ Đạo pháp mà hiện sự việc phàm phu; đối với các kiến chấp chẳng bị lay động mà tu 37 phẩm trợ Đạo; chẳng dứt phiền não mà vào Niết Bàn. Làm được các việc như trên mới chính là ngồi yên trên Tòa mà thiền định." Thưa Thế Tôn! Sau khi nghe Ông nói tôi không thể đáp được một câu, cho nên nay tôi không dám qua thăm bệnh." 

Đức Phật cho đòi các Ông: Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Ca Chiên Diên, A Na Luật, Ưu Bà Ly, La Hầu LaA Nan là 10 vị đại đệ tử cũng đều từ thác: "bất kham" vì đều đã bị những trường hợp tương tợ như Xá Lợi Phất.

Đức Phật lại cho mời Ngài Di Lặc đến, thì Di Lặc vẫn từ rằng: "Tôi cũng bất kham. Vì ngày trước, lúc tôi mới nói ba bậc bất thối chuyển thì cư sĩ Duy Ma Cật đến bảo: "Di Lặc! Tôi vừa nghe Ngài được Đức Phật thọ ký cho sẽ làm Phật. Vậy Ngài sẽ làm Phật vào đời nào? Quá khứ, vị lai hay hiện tại chăng? Xét ra quá khứ qua rồi, vị lai chưa đến, mà hiện tại thì chẳng trụ; như vậy ba đời đều tìm chẳng được. Hoặc là thọ cho vô sanh chăng? Nhưng vô sanhchính vị, mà đã chính vị là trung ương thì đâu còn có thọ ký gì nữa? Hay là như tánh mà thọ ký chăng? Lại cũng không được, vì tất cả chúng sanh đều như tánh, cho nên khi Ngài được thọ ký thì tất cả chúng sanh cũng được thọ ký; tại sao? Vì tất cả chúng sanh là tướng Bồ Đề vậy. Nếu Ngài được Niết bàn, thì tất cả chúng sanh cũng được Niết bàn; tại sao? Vì tất cả chúng sanh rốt ráo vắng lặng là tướng Niết bàn, mà tướng ấy là bất sanh bất diệt rồi vậy." Sau khi nghe ông thuyết một hồi, tôi cũng chẳng đối đáp gì được ráo, cho nên tôi cũng bất kham."

Bấy giờ đức Phật cho đòi Ngài Văn Thù Sư Lợi đến và bảo thay Ngài đi qua thăm bệnh cư sĩ. Thì cả Đại chúng đều nghĩ rằng: Nay Văn Thù Sư Lợi cùng Duy Ma Cật gặp nhau chắc hai Đại sĩ sẽ đàm luận Đạo pháp nhiệm mầu. Thế là cả Đại chúng tùy tòng với Văn Thù mà vào Thành Tỳ Da Ly.

Thì cư sĩ đã biết trước ngài Văn Thù Sư Lợi thừa lệnh đức Phật sẽ đến thăm mình, nên ông cho những người nhà và thị giả đều lui hết; trong nhà trống trơn chẳng còn một vật gì cả, chỉ còn một chiếc giường đủ ông nằm thôi.

Cư sĩ vừa thấy ngài Văn Thù liền nói: "Văn Thù Sư Lợi! Là tướng chẳng đến mà đến, tướng chẳng thấy mà thấy!"

Ngài Văn Thù nói: "Cư sĩ! Đến rồi thì chẳng đến, đi rồi lại chẳng đi." Rồi nhập đề: "Cư sĩ! Bị bệnh chi, có dễ chịu không? Đã có thuốc chi hay để trị không? Bệnh tăng hay giảm? Đó là lời ân cần của đức Thế Tôn gởi thăm Cư sĩ." Và hỏi tiếp: "vậy chớ bệnh của Cư sĩ do đâu mà sanh?"

Đáp: "Bệnh tôi do ái mà sanh, vì tất cả chúng sanh bệnh nên tôi mới bệnh; nếu tất cả chúng sanh không bệnh thì bệnh tôi cũng lành. Xin mời Ngài xem: Bồ tát đâu chẳng phải vì chúng sanh mà vào sanh tử? Mà hễ ai vào sanh tử là phải bị tật bệnh. Nhưng, nếu chúng sanh không bệnh, Bồ tát cũng không tật bệnh gì. Ví như trưởng giả có một chút con trai, mà cậu con bị bệnh, thời ông bà trưởng giả kia cũng bệnh theo. Bệnh của Bồ tát là bởi lòng từ bi mà sanh.

Kinh Duy Ma Cật

Bồ Tát thường hay tu phương tiện thắng trí mà biết được tâm của chúng sanh ưa muốn những gì, rồi tùy theo bệnh mà cho thuốc diệt trừ hết các bệnh, nghĩa là khiến chúng sanh thông suốt Phật pháp, gọi là Phương tiện ba la mật. Vì muốn khiến chúng sanh được lợi ích nên chẳng tiếc thân mạng, gọi là Thân cận ba la mật. Vì các chúng sanh nên đối với kẻ oan người thân bình đẳng nói pháp mầu nhiệm, khiến vào Phật trí, gọi là Chơn thật ba la mật ai trọn nên ba món sau đây, thì mới gọi là thành tựu Thiện xảo ba la mật (ba la mật là nghĩa: rốt ráo).

Dùng sức chánh trí có thể hiểu rõ tâm hành thiện, ác của chúng sanh mà vì nói pháp tương ưng khiến vào nghĩa sâu xa mầu nhiệm. An trụ Niết bàn rốt ráo, gọi là lực Ba la mật. Dầu hy sinh thân sống vì mục đích lợi lạc chúng sanh, gọi là thân cận Ba la mật. Đem sức Diệu trígiáo hóa chúng sanh tà kiến, khiến dứt ác nghiệp, chứng quả Niết bàn "thường, lạc", gọi là chơn thiệt Ba la mật. Thành tựu 3 món này, mới là thành tựu trí lực Ba la mật.

Kinh Bát Nhã

Bồ tát, hoặc khi làm vị Đế vương, lâm ngự đại quốc, oai đức trùm khắp, danh lừng cả thiên hạ, những kẻ oán địch thảy qui thuận. Mỗi khi ra mệnh lệnh, căn cứ nơi chánh pháp. Lấy một chiếc lọng che khắp muôn phương, ai thấy chẳng phục; chẳng dùng hình phạt, lấy đức cảm hóa. Nhà vua, hoặc vì cầu chánh phápthuở nay chưa từng có, nên phải gieo mình dưới hầm lửa dữ; hoặc vì muốn hộ trì Như lai chánh pháp, nên đem thân chịu khổ sở mà vẫn đành lòng. Hoặc lắm khicầu pháp cho đến một chữ một câu mà đã hay xả thí sự giàu sang khắp cả bốn biển chẳng chút lẫn tiếc.

Kinh Hoa Nghiêm

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12589)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10486)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12444)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11742)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28912)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12137)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13099)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11538)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12451)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17569)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53266)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35597)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21603)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10755)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19396)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12519)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26214)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13444)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14491)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16166)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13831)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16951)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17755)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13250)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12627)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11710)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11709)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14624)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20634)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19179)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19715)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18820)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12268)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12432)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13976)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15179)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15148)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14077)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15618)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11502)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17329)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15124)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20332)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14707)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13948)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11805)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15160)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13076)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22994)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14643)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11745)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13255)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16984)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18443)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 12018)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11588)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15964)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12978)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 19012)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18575)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant