Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

d. Pháp thân

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 11676)
d. Pháp thân

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN III – NHƠN QUẢ

CHƯƠNG III

PHẬT ĐÀ

D. PHÁP THÂN

Phật nói: Từ nay về sau, các đệ tử Ta truyền nhau hành đạo, tức là pháp thân Như Lai thường còn ở đời mà chẳng mất vậy.

Kinh Di Giáo

Pháp thânbất động, bất sanh, bất hý luận, bất phân biệt, yên lặng vậy. Chẳng khá thấy, chẳng khá nghe, chẳng khá ngửi, chẳng khá nếm, chẳng khá rờ, in như thấy các bóng trong gương, tùy theo tâm chúng sanh, mọi sức tin hiểu, mà thị hiện các thân sai khác.

Kinh Phật Cảnh Giới

Trí Như Lai sâu thẩm, khắp chuyển nới pháp giới, dẫn đường sáng cho đời, đồng pháp thân các Phật, tùy theo ý chúng sanh, cho thấy các hình sắc, một cõi một Phật thân, hóa làm vô lượng Phật.

Kinh Hoa Nghiêm

Ngài Đại Huệ Bồ Tát lại thưa với đức Phật rằng: Thưa Thế Tôn! Vì sao Như Laimật ý đối với đại chúng mà xướng lời như vậy: "Ta là tất cả các đức Phật đời quá khứ."

Đức Phật đáp: Này Đại Huệ! Vì Như Lai nương 4 món bình đẳng nên có mật ý với trong đại chúng mà nói lời như thế. Là 4 món gì? Gọi là: 1. Tự bình đẳng, 2. Ngữ bình đẳng, 3. Thân bình đẳng, 4. Pháp bình đẳng

Tự bình đẳng là: Ta gọi là Phật, tất cả các đức Như Lai khác cũng gọi là Phật, tên Phật không sai khác, ấy là tự bình đẳng

Ngữ bình đẳng là: khởi lên các lời bằng tiếng phạm âm, tất cả các Như Lai cũng nói tiếng ấy, vì tánh của tiếng phạm âm chẳng thêm chẳng bớt, không có sai khác, ấy là ngữ bình đẳng

Thân bình đẳng là: pháp thân sắc tướng và các món tùy hình hảo của Ta cùng với các đức Phật khác thảy đều đồng, không có sai biệt, ấy là thân bình đẳng

Pháp bình đẳng là: Ta cùng các đức Phật khác đều đồng nói được 37 món bồ đề phận pháp, ấy là pháp bình đẳng

Do đó cho nên Như Lai đối giữa đại chúng mà nói lời như thế.

Kinh Nhập Lăng Già

Thân Phật dầy nhẫy trong pháp giới.

Khắp hiện trước mặt mọi chúng sanh.

Theo duyên cảm đến thảy đều khắp.

Mà thường ngồi tòa các Bồ tát.

Kinh Hoa Nghiêm

Pháp thân Như Lai với pháp thân Bồ tát bản thể tuy không khác, mà với công đức oai lực thời chẳng đồng. Tất cả pháp tánh tướng bình đẳng, bản thể đồng nhất: Phàm Thánh, mê ngộ, nhiễm tịnh, nhơn quả khứ lai, tiến thoái, đều đồng một tướng vậy. Nhưng như ngọc ma ni chưa được mài đủa lau chùi thời chưa có ánh sáng vẻ vang. Pháp thân của Bồ Tát cũng như viên ngọc ma ni chưa dũa lau, cho nên không thể nói là đồng với Pháp thân Như Lai được.

Kinh Hoa Nghiêm

Đức Phật bảo Ngài Ca Diếp rằng: Thân Như Lai là thân thường trú, cái thân cứng như kim cương không thể phá hoại được. Hễ ai có nhơn duyên hay hộ trì Chánh pháp, thời thành tựu được thân kim cương này. Ta nhiều đời về trước, nhờ nhân duyên hộ pháp, mới được trọn nên thân kim cương thường trú chẳng khá hoại nầy.

Kinh Niết Bàn

Ngài Di Lặc Bồ Tát hỏi Phật rằng: Khi Phật ở thành Tì Gia mà thành đạo dưới gốc cây Bồ đề, cho đến nay chưa bao lâu, mà được vô số Phật, Bồ tát đã nhiều kiếp tu hành đến nay kính lễ Thế Tôn, in như ông già trăm tuổi bảo một kẻ thanh niên hơn hai mươi tuổi rằng: "Ngươi là cha ta vậy". Cha mà nhỏ tuổi hơn con, cả người đời chẳng ai tin nổi. Xin Phật vì người đời saugiải thích cho điều nghi này.

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo cả chúng Đại Bồ tát rằng: Từ khi Ta thành Phật đến nay đã 500 vạn ức số mảy trần, cũng đã trải qua trăm ngàn vạn ức thời gian số kiếp. Từ ấy đến nay ta thường ở thế gian này thuyết pháp giáo hóa, và còn ở trăm ngàn vạn ức thế giới khác nữa, mà dìu dắt lợi ích cho chúng sanh.

Này các Bồ Tát! Ta ở trong ngần ấy thời gian, làm các món Phật sự, và lại nói rằng nhập Niết Bàn như thế, đều là dùng phương tiện vậy thôi. Các Bồ Tát! Ta tiếp người ứng theo tri thức của họ mà nói ra danh tự chẳng đồng, tuổi tác lớn nhỏ; lại có lúc nói nhập Niết Bàn, có lúc chẳng nhập Niết Bàn. Như Lai với chúng sanh nào ưa tiểu pháp, thời Ta nói Ta xuất gia từ nhỏ, rồi chứng được quả vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nhưng kỳ thật Ta thành Phật đến nay đã lâu lắm rồi, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh khiến vào Phật Đạo nên mới nói như vậy thôi.

Này các Bồ Tát! Như Lai diễn nói kinh điển đều nhắm mục đích độ thoát chúng sanh. Tuy là hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc hiện việc mình, hoặc hiện việc người; đã nói ra đều là chân thật, chẳng hư.

Tại sao thế? Tại vì Như Lai thật biết thấy toàn tướng ba cõi không có sanh tử, hoặc vào hay ra, không có kẻ tại thế hay diệt độ, chẳng thật cũng chẳng hư, chẳng đồng cũng chẳng dị, chẳng phải giống như cái thấy biết ba cõi của phàm phu.

Như Lai thấy biết rõ ràng, không có lầm lẫn. Bởi chúng sanh có nhiều lòng tham muốn, nhiều món phân biệt, cho nên phải nói nhiều nhơn duyên, nhiều phương pháp, để khiến tu các điều lành. Như vậy Ta từ khi thành Phật đến nay, đã rất lâu xa, sống lâu vô lượng thường trú chẳng diệt; mà lại nói rằng "Diệt" là vì muốn giáo hóa chúng sanh vậy. Thế thì tại sao mà chẳng nói Như Lai thường trú bất diệt? Bởi những người bạc đức, chẳng trồng căn lành, nều nói thế họ càng bần cùng hạ tiện, tham lam ngũ dục mà bị đọa vào vọng kiến, cho nên phải phương tiện bảo rằng: "Các Đức Phật ra đời khó gặp, qua trăm vạn kiếp mới có Phật ra đời, mà còn có người chẳng thấy Phật". Chúng sanh nghe lời nói này, thời nhất định sẽ nghĩ là khó gặp, mới sanh lòng khao khát trong gặp Phật, muốn trồng các căn lành, vậy nên Như Lai chẳng diệt mà bảo rằng "diệt độ" vậy.

Kinh Pháp Hoa

Pháp thân Như Lai phi lai, phi khứ, vì thật tánh của các pháp chẳng lay động vậy. Chơn nhưNhư Lai, pháp giớiNhư Lai, pháp tánhNhư Lai, tánh không hư vọngNhư Lai, tánh không biếng nhácNhư Lai, tánh bình đẳngNhư Lai, tánh ly sanhNhư Lai, thật tánhNhư Lai, trụ tánh là Như Lai, thật tếNhư Lai, cõi hư khôngNhư Lai, cõi chẳng nghĩ bàn là Như Lai, tánh vô sanhNhư Lai, tánh vô diệt là Như Lai, tánh như thậtNhư Lai, tánh xa lìaNhư Lai, tánh vắng lặngNhư Lai, không tánhNhư Lai, vì là không đến không đi vậy.

Kinh Đại Bát Nhã

Đức Phật gọi Ngài Ca Diếp: Này Ca Diếp! Phật tánh thẳm sâu khó thấy khó vào. Ví như như có một trăm kẻ mù, vì muốn chữa mắt, mới rủ nhau đến một danh sư. Vị thầy thuốc lấy con dao bằng vàng cắt màng trong con mắt; rồi ông đưa một ngón tay hỏi bọn kẻ mù thấy không? Đáp: chưa thấy được. Ông lại đưa hai ba ngón, bọn kẻ mù mới thấy lờ mờ. Cũng như có vô lượng Bồ Tát, đầy đủ các món Ba la mật, tuy chứng đến Thập trụ, mà Như Lai chưa nói Phật tánh nên chẳng hay thấy được Phật tánh, Thập Trụ Bồ Tát hãy còn chẳng thấy huống hồ nhị thừa. Và đến khi Như Lai đã nói Phật tánh, mới thấy chút ít vậy.

Ví như có người đi ngoài đồng nội, khát mà tìm nước, vừa có con hạc trắng ở trong đám cây rừng rậm, kẻ khát kia vì mê muội, nên không thể phân biệt được, cho con hạc là nước, và khi đến nơi xem kỹ mới biết là con hạc trắng.

Kinh Niết Bàn

Đức Phật dạy: Các Đệ tử ví như có một nhà vua, phán quan Đại thần đem một con voi bảo bọn người mu rờ coi. Bọn mù mỗi người chỉ rờ được một chỗ thôi. Nhà vua hỏi bọn mù hình voi ra sao? Kẻ rờ được cặp ngà thì tâu: hình nó như hai bắp chuối; kẻ rờ nhằm hai tai thì tâu: hình nó giống như cái quạt mo, kẻ rờ nơi đầu thì tâu: không phải như chuối, mo, mà như cục đá; kẻ rờ trúng cái vòi thì trả lời giống như khúc chày; kẻ rờ phải chân nói voi giống như chiếc cối; có kẻ bộ cao con nên rờ đến trên lưng thì tâu: con voi giống như chiếc giường nằm, kẻ lùn rờ nơi bụng thì tâu: như cái lu; và kẻ rờ nhằm cái đuôi thì tâu: cái hình con voi chỉ giống như một đùm giây chớ chẳng giống gì khác.

Bọn người mù đã tâu, tuy chẳng nói hết được toàn thân con voi, nhưng ngoài cái mà họ đã nói thì không có voi. Tất cả pháp, tại sắc bất tại thọ, đều là Phật tánh vậy.

Kinh Niết Bàn

Ở trong một mảy trần thấy đủ các thế giới chúng sanh nghe điều này phát cuồng tâm mê loạn.

Kinh Hoa Nghiêm

Đức Di Lặc Bồ tát bảo Ngài Diệu Cát Tường rằng: "Tôi không thể cúng dường Đức Như Lai được. Tại sao thế? Vì Như Lai Chơn Như, không có hai tướng, Chơn NhưNhư Lai vậy".

Ngài Diệu Cát Tường hỏi: Sao Ngài biết không có hai tướng? Ngài Di Lặc đáp: Vì sanh khởi tâm phân biệt sai khác rồi cho: đây là phiền não, kia là xuất thế gian, nên có hai tướng. Nếu liễu đạt được nhứt tánh tất cả mọi pháp như thế cả thời không có hai tướng.

Đối với hai tướng, nếu chẳng bị tùy theo thức nó chuyển biến khởi các tướng phân biệt thời không có hai tướng.

Kinh Thần Thông Cảnh Giới 

Cảnh giới các Đức Phật Thế Tôn không thể so sánh được, vì cảnh giới bất khả tư nghì. Có chỗ đã gọi: Tất cả các đức Phật ngồi xếp bằng tréo chân một chỗ mà biến đầy khắp mười phương vô lượng thế giới. Tất cả các Đức Phật nói nghĩa một câu đều có thể mở bày, tất cả Phật pháp. Tất cả các Đức Phật phóng một ánh hào quang đều có thể soi khắp tất cả thế giới. Tất cả các Đức Phật với trong một thân, đều có thể thị hiện tất cả các thân. Tất cả các Đức Phật với trong một chỗ, đều có thể thị hiện tất cả thế giới. Tất cả các Đức Phật với trong một trí, đều có thể thấu rõ tất cả các pháp. Tất cả các Đức Phật với trong một niệm, đều có thể trụ mười phương thế giới. Tất cả các Đức Phật với trong một niệm, đều có thể hiển hiện vô lượng oai đức của Như Lai. Tất cả các Đức Phật với trong một niệm, khắp duyên ba đời Phật và chúng sanhtâm không lộn xộn. Và tất cả các Đức Phật với trong một niệm, cùng với các Đức Phật quá khứ, hiện tại vị lai thể một không hai vậy.

Kinh Hoa Nghiêm

Bồ tát biết tất cả cảnh giới trong thế giancảnh giới của Như Lai. Tất cả cảnh giới ba đời, tất cả cõi cảnh giới, tất cả pháp cảnh giới, tất cả chúng sanh cảnh giới, cõi chơn thật không sai khác cảnh giới, pháp giới không ngăn ngại cảnh giới, thật tế không ngằn mé cảnh giới, hư không không hạn lượng cảnh giới, cảnh giới không có cảnh giớiNhư Lai cảnh giới. Cảnh giới của thế gian nhiều vô lượng thì cảnh giới của Như Lai cũng nhiều vô lượng.

Kinh Hoa Nghiêm

Người đời buông lung say mê trong năm món dục, vọng tưởng xằng bậy mà gây tội khổ. Vậy nên siêng năng tu hành chẳng buông lung, phụng hành Phật pháp, lập đại thệ nguyện, năng độ kẻ mê ấy là Phật cảnh giới. Thấy kẻ mê lầm lạc đường Chánh Đạo, tập thành các tà hạnh đọa vào các thú, ở lâu trong chốn rất tối tăm; vì những kẻ ấy hiện ra đèn trí huệ khiến thấy Phật pháp, là Phật cảnh giới.

Nước biển trong ba cõi sâu rộng mênh mông không bờ đáy; các chúng sanh nối chìm trong đó, dùng phương tiện tạo thành con thuyền Chánh pháp để độ qua, là Phật cảnh giới vậy.

Kinh Hoa Nghiêm

Cảnh giới các Đức Phật chẳng khá nghĩ bàn, tất cả chúng sanh suy lường cảnh giới Phật, thời tâm phát cuồng loạn.

Kinh Bát Nhã 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12579)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10486)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12443)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11740)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28909)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12136)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13090)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11533)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12449)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17565)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53261)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35596)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21599)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10753)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19395)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12519)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26211)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13441)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14488)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16165)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13831)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16951)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17751)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13250)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12619)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11700)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11706)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14613)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20633)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19175)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19712)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18818)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12264)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12424)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13975)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15175)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15136)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14067)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15614)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11500)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17327)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15112)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20331)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14695)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13948)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11805)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15155)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13068)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22992)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14634)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11745)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13254)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16979)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18433)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 12015)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11584)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15950)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12976)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 19009)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18571)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant