Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

i. Điều hòa bốn đại

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 10986)
i. Điều hòa bốn đại

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN II 

NGÔN HÀNH 

--- o0o --- 

Chương II

TỰ LỢI 

I. ĐIỀU HÒA BỐN ĐẠI

Phật dạy các Tỳ kheo, đi bộ có 5 công đức. Những gì là 5?

Chạy giỏi 

sức mạnh 

Trừ ngủ 

Ăn uống dễ tiêu mà chẳng sanh bệnh 

Làm cho người tu dễ được định ý, làm cho được định ý và lâu lắm 

Kinh Thất Xứ Tam Muội

Các Tỳ kheo! Thường ngày phải rưới nước và quét trong nhà; trong nhà nếu có mùi hôi thời xoa bột hương; nếu còn hôi thời lấy hương treo bốn góc vạch trong nhà. 

Luật Tứ Phần

Đức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo rằng: Cất nhà tắm có 5 món công đức

Ngăn gió 

Lành bệnh 

Trừ sạch đất nhơ 

Thân thể nhẹ nhàng 

Được mập trắng 

Kinh Tăng Nhứt A Hàm

Mai, chiều phải súc miệng; phương pháp súc miệng là đổ nước vào miệng rồi ba phen trộn trạo, gọi là pháp tịnh khẩu.

Những người miệng hôi, phải nhâm nhánh dương chi. Nhâm dương chi có 5 sự lợi ích

Miệng chẳng đắng 

Chẳng hôi miệng 

Trừ gió 

Đề phòng bệnh nóng 

Trừ đàm nhớt 

Nhâm xong, lấy nước rửa rồi vất đi.

Luật Thập Tụng

Phật dạy: Này các đệ tử! Đầu tóc dài, móng tay dài, áo quần dơ chẳng biết phải lúc nói năng nhiều; gọi là năm món hủy nhục pháp của Tỳ kheo vậy.

Tất cả Đạo, tục bảy chúng, khi dùng nước uống phải lọc, lọc xong người có con mắt tỏ xem thấy chỉ tay trong bàn tay là dùng được.

Luật Tăng Kỳ

Nước để cách đêm, xem thấy có sanh vi trùng, nếu chẳng lọc thì đừng uống. 

Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ

Người vì lúc ăn quá no nên thân thể nặng nề sanh biếng nhác, mất lợi ích lớn của đời này và đời sau; ngủ mê tự chịu khổ, lại làm phiền người khác và mê muội khó thức dậy, cho nên phải biết thời và độ lượng mà ăn vừa thôi. 

Kinh Ni Kiền Tử

Nếu ăn no quá thì hơi thở gấp, thân đầy trăm đường mạch máu chẳng điều hoà, tâm bị ngăn ngại, ngồi nằm không yên. Trái lại ăn giảm ít, thời thân thể ốm, tâm bị treo ý nghĩ ngợi không được bền. 

Kinh tăng Nhứt A Hàm

Với tất cả chỗ mà đại, tiểu bậy bạ, thì đọa vào địa ngục bạt bạ 500 đời. Hai mươi tiểu kiếp, phải tay ôm chỗ đất đại tiểu thúi hôi cho đến chết. 

Kinh Ưu Bát Kỳ Vương

Chẳng nên hỉ, khạc trước chỗ đông người. Muốn hỉ khạc phải đến chỗ khuất, đừng cho người ta nhờm gớm.

Kình Tỳ Ni Mẫu

Muốn cất cầu tiêu, không nên cất ở phía Đông, mà phải đặt ở phía Bắc; còn đường gió phải khai về hướng Nam, hoặc Tây Đông. Người đi cầu, chẳng nên lặng thinh mà vào, phải gõ cửa rồi mới vào. Nếu bên trong có người phải trả lời bằng cách gõ lại.

Nếu muốn khạc nơi đất phải để cái bình một chỗ, để vào trong bình ít đất cát hoặc vôi, rồi mới khạc trong bình, phải thường thường đem đổ, đừng cho sanh mùi hôi. Lấy nước sạch rửa bình cho sạch, úp xuống phơi khô rồi mới dùng lại. 

Luật Tăng Kỳ

Người bị đau có 10 nguyên nhân

Ngồi lâu mà chẳng nằm 

Ăn không tiêu 

Lo sầu 

Quá mệt 

Dâm lung 

Giận dữ 

Đến lúc đại tiện mà nhịn không đi 

Đến lúc tiểu tiện mà nhịn không đi 

Ngăn hơi ợ 

Ngăn hơi thoát ở hậu môn 

Kinh Y (Trị Bịnh)

Thân người do bốn đại hòa hợp mà thành, bốn đại này là đất, nước, gió, lửa, một món chẳng điều hòa là một trăm bệnh sanh ra, mà cả bốn món chẳng điều hòa là bốn trăm bốn bệnh đồng thời phát sanh. 

Kinh Ngũ Vương

chúng sanh bị bệnh vì không uống thuốc men và không có người chăm sóc mà phải chết, gọi là hoạnh tử, và phạm pháp luật phải tội xử tử, gọi là hoạnh tử. Lại say mê săn bắn, buông lung, dâm đãng, nhậu rượu say sưa vô độ mà bị hại gọi là hoạnh tử. Lại nữa, bị nước trôi, lửa cháy, cũng là hoạnh tử. Kế nữa, bị sư tử, hổ lang, độc trùng ác thú mà chết cũng gọi là hoạnh tử. Lại nữa, bị đói khát mà chết cũng là hoạnh tử. Thêm nữa, bị thuốc độc hay bùa chú ếm đối mà chết cũng là hoạnh tử. Và nhào đầu xuống gộp đá mà chết, cũng là hoạnh tử

Kinh Dược Sư Như Lai Bổn Nguyện

Chúng sanh bị chết ngang có 9 nguyên nhơn: 

Khi ăn những món chẳng nên ăn 

Ăn uống không độ lượng 

Chẳng biết mùa Đông mùa Hè, hay khi đến nước khác chẳng biết phong tục mà ăn những món không tiêu 

Những món ăn trước chưa tiêu mà ăn thêm vào nữa và chẳng uống thuốc 

Đến khi đại tiểu tiện mà chẳng chịu đi 

Khi chẳng giữ ngũ giới 

Khi gần gũi kẻ ác 

Khi đi vào núi rừng sâu thẳm, hoặc đến chỗ đấu tranh 

Khi những nơi chỗ đáng tránh mà chẳng tránh 

Nếu ai tránh được 9 nguyên nhơn này thì được hai phước báo: một là sống lâu; hai là vì nhờ sống lâu nên được nghe chánh pháptu hành

Kinh Cửu Hoạnh

Người bệnh mà trọn đủ 9 điều sau đây chắc sẽ chết ngay: 

Biết món ăn không lợi mà vẫn ăn 

Chẳng biết độ lượng 

Đồ ăn còn nằm trong chưa tiêu mà nuốt thêm vào 

Ăn chưa tiêu mà hộc mửa ra 

Đã tiêu, đáng lẽ cho nó ra mà cố giữ lại 

Ăn chẳng tùy theo bệnh 

Ăn tùy theo bệnh mà chẳng độ lượng 

Tâm thường trễ nải 

Không có trí huệ, ấy vậy 

Luật Tăng Kỳ


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12580)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10486)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12444)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11740)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28909)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12136)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13091)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11533)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12450)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17565)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53261)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35596)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21600)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10753)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19395)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12519)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26211)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13441)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14489)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16165)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13831)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16951)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17751)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13250)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12623)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11701)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11706)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14623)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20633)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19176)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19712)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18819)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12264)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12430)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13975)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15175)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15139)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14069)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15615)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11500)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17327)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15121)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20332)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14696)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13948)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11805)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15155)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13069)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22992)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14635)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11745)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13254)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16979)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18434)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 12018)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11586)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15950)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12976)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 19009)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18572)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant